Tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” là tội phạm quy định tại Điều 260 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (sau đây gọi là Bộ luật Hình sự) thuộc Chương XXI. Tội phạm này xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về trật tự, an toàn giao thông đường bộ, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện dưới hình thức lỗi vô ý. Đối với tội phạm này, người phạm tội không thực hiện, thực hiện không đúng hoặc không đầy đủ các quy định của pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, tài sản của người khác. Bài viết về những bất cập và vướng mắc của pháp luật liên quan đến tội này và đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện.
1. Những bất cập, vướng mắc khi áp dụng
So với Điều 202 Bộ luật Hình sự năm 1999, mặc dù Điều 260 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung đầy đủ, cụ thể hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử loại tội phạm này. Tuy nhiên, qua nghiên cứu cũng như thực tiễn xét xử cho thấy, quy định của Bộ luật Hình sự và các văn bản pháp luật liên quan còn có bất cập, chưa cụ thể dẫn tới quá trình giải quyết án còn gặp khó khăn, vướng mắc. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, về hậu quả theo quy định tại Điều 260 Bộ luật Hình sự. Hậu quả là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành định tội và định khung hình phạt tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”. Tuy nhiên với quy định hiện nay của Điều 260 Bộ luật Hình sự dẫn đến trường hợp một người thực hiện hành vi phạm tội gây ra hậu quả lớn hơn nhưng chịu trách nhiệm hình sự nhẹ hơn so với người thực hiện hành vi phạm tội gây ra hậu quả nhỏ hơn là sự bất cập, vướng mắc; thể hiện qua bảng so sánh hậu quả pháp lý của một số trường hợp cụ thể như sau:
Trách nhiệm hình sự |
Trường hợp thứ nhất |
Trường hợp thứ hai |
Trường hợp thứ ba |
Trường hợp thứ tư |
Hậu quả |
02 người bị thương, tổng tỷ lệ từ 122% đến 200% |
01 người chết, 01 người bị thương, tỷ lệ 61% trở lên |
03 người bị thương, tổng tỷ lệ từ 201% trở lên |
02 người chết; 02 người trở lên bị thương mà tổng tỷ lệ tổn thương từ 122% đến 200% |
Hình phạt (Điều 260) |
Theo điểm e khoản 2: Phạt tù từ 03 năm đến 10 năm |
Theo điểm a, b khoản 1: Phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm |
Theo điểm b khoản 3: Phạt tù từ 07 năm đến 15 năm |
Theo điểm đ, điểm e khoản 2: Phạt tù từ 03 năm đến 10 năm |
Căn cứ bảng so sánh trên chúng ta thấy: Hậu quả xảy ra ở trường hợp thứ nhất rõ ràng là nhẹ hơn (vì 02 người chỉ bị thương), nhưng bị truy tố và xét xử theo khoản 2 với mức hình phạt tù từ 03 năm đến 10 năm. Trong khi đó, với trường hợp thứ hai, hậu quả xảy ra là nặng hơn so với trường hợp thứ nhất (01 người chết; 01 người bị thương), nhưng chỉ bị truy tố, xét xử theo khoản 1, có mức hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Tương tự rõ ràng hậu quả của trường hợp thứ tư là nghiêm trọng hơn (02 người chết, 02 người trở lên bị thương, tổng tỷ lệ từ 200% trở xuống) so với hậu quả xảy ra ít nghiêm trọng hơn của trường hợp thứ ba (03 người bị thương, tổng tỷ lệ từ 201% trở lên) nhưng khung hình phạt quy định áp dụng cho trường hợp thứ ba là nặng hơn (hình phạt tù từ 07 năm đến 15 năm) so với khung hình phạt quy định cho trường hợp thứ tư (hình phạt tù từ 03 năm đến 10 năm), từ đó, mức hình phạt Tòa án áp dụng cho trường hợp thứ ba, nếu như không có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì cũng nặng hơn so với trường hợp thứ tư.
Thứ hai, về tình tiết “trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định”. Có thể hiểu quy định tại điểm b khoản 2 Điều 260 Bộ luật Hình sự được áp dụng đối với tất cả chủ thể tham gia giao thông đường bộ, gồm: Người điều khiển, người sử dụng phương tiện tham gia giao thông đường bộ; người điều khiển, dẫn dắt súc vật; người đi bộ trên đường bộ (khoản 22 Điều 3 Luật Giao thông đường bộ). Do đó, tất cả các chủ thể này nếu phạm tội trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 260 Bộ luật Hình sự.Tuy nhiên, hiện nay chúng ta mới chỉ có thể căn cứ Luật Giao thông đường bộ và Luật Phòng, chống tác hại của rượu, bia để áp dụng quy định tại điểm b khoản 2 Điều 260 Bộ luật Hình sự đối với người điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ[1]. Còn đối với các chủ thể khác gồm: Người sử dụng phương tiện tham gia giao thông đường bộ; người điều khiển, dẫn dắt súc vật; người đi bộ trên đường bộ mà phạm tội thuộc trường hợp trong tình trạng có sử dụng rượu, bia hoặc say rượu, bia thì có bị áp dụng không? Nếu áp dụng thì căn cứ vào quy định nào vì hiện nay không có văn bản pháp luật quy định nồng độ cồn của các chủ thể này ở mức bao nhiêu thì bị coi là “vượt quá mức quy định”.
Thứ ba, về tình tiết không có giấy phép lái xe theo quy định. Thực tiễn giải quyết các vụ án về giao thông cho thấy, không ít trường hợp tại thời điểm gây tai nạn, người vi phạm Luật Giao thông đường bộ không có giấy phép lái xe theo quy định. Khi được hỏi về giấy phép lái xe thì người vi phạm trình bày lý do để quên ở nhà, bị hư hỏng do thiên tai, hỏa hoạn, bị mất… sau một thời gian, người vi phạm xuất trình với cơ quan tiến hành tố tụng giấy phép lái xe hoặc là giấy xác nhận giấy phép lái xe bị mất, bị hư hỏng do thiên tai, hỏa hoạn. Có quan điểm cho rằng, luật chỉ quy định không có giấy phép lái xe theo quy định thì bị truy tố, xét xử theo điểm a khoản 2 Điều 260 Bộ luật Hình sự chứ không ràng buộc là phải có giấy phép lái xe theo quy định trong khi điều khiển phương tiện tham gia giao thông. Vì vậy, người vi phạm chỉ cần chứng minh là mình có giấy phép lái xe là được, không phụ thuộc vào việc người đó có mang theo hay để ở nhà, hiện còn hay đã bị hư hỏng, mất. Vấn đề đặt ra trong các trường hợp trên cơ quan tiến hành tố tụng có chấp nhận hay không chấp nhận họ có giấy phép lái xe. Tình tiết này mặc dù đã được hướng dẫn tại khoản 8 Điều 1 Thông tư liên tịch số 09/2013/TTLT-BCA-BQP-BTP-VKSNDTC-TANDTC ngày 28/8/2013 của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIX Bộ luật Hình sự về các tội xâm phạm trật tự, an toàn giao thông, nhưng vẫn chưa đầy đủ dẫn tới khi áp dụng trên thực tế còn có vướng mắc, cụ thể:
(i) Trường hợp mất giấy phép lái xe, giấy phép lái xe bị hư hỏng do thiên tai, hỏa hoạn: Hiện có nhiều quan điểm khác nhau, có quan điểm cho rằng đây là trường hợp không có giấy phép lái xe theo quy định; có quan điểm cho rằng, đây vẫn là trường hợp có giấy phép lái xe theo quy định. Tác giả cho rằng, trường hợp này, cơ quan tiến hành tố tụng phải xác minh xem họ có giấy phép lái xe theo quy định hay không. Nếu họ có nhưng bị mất, bị hư hỏng do thiên tai, hỏa hoạn và thời điểm gây ra tai nạn giao thông giấy phép lái xe của họ vẫn còn giá trị thì được coi như trường hợp có giấy phép lái xe theo quy định và do đó người vi phạm không bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 260 Bộ luật Hình sự.
(ii) Trường hợp đã được đào tạo và thi đỗ sát hạch lái xe nhưng chưa nhận giấy phép lái xe: Quan điểm thứ nhất cho rằng, không thể coi việc họ thi đỗ kỳ thi sát hạch là đã có giấy phép lái xe. Bởi lẽ, sau khi đã đỗ kỳ thi sát hạch thì cần phải có thời gian kiểm tra xem việc tổ chức thi có đúng với quy định của pháp luật hay không để cấp giấy phép lái xe cho người thi đỗ. Trên thực tế có nhiều trường hợp thi hộ hoặc có vi phạm, tiêu cực trong quá trình thi nhưng không bị phát hiện.
Quan điểm thứ hai cho rằng, đây vẫn được coi là có giấy phép lái xe, bởi lẽ việc họ đã học xong và thi đỗ sát hạch có nghĩa là họ đã đủ điều kiện, tiêu chuẩn về việc lái xe. Việc cấp giấy phép lái xe chỉ là thủ tục hành chính và về bản chất, giấy phép lái xe chỉ là hình thức công nhận người đó có đủ điều kiện để lái xe.
Tác giả cho rằng, trường hợp người vi phạm chưa được nhận giấy phép lái xe nhưng thời điểm gây tai nạn giao thông giấy phép lái xe đã được cấp thì họ được coi như “có giấy phép lái xe theo quy định”, vì thời điểm đó họ đã có đủ điều kiện để điều khiển phương tiện. Còn trường hợp thời điểm gây tai nạn, giấy phép lái xe chưa được cấp (theo ngày ghi trên giấy phép lái xe) thì bị coi là “Không có giấy phép lái xe theo quy định”.
(iii) Trường hợp học viên học lái xe điều khiển xe chuyên dụng dùng cho tập lái: Tác giả cho rằng, theo quy định về đào tạo học viên lái xe thì bắt buộc học viên phải điều khiển xe tập lái nên họ không phải chịu tình tiết định khung “Không có giấy phép lái xe theo quy định”. Tuy nhiên, người phạm tội vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự tương ứng hậu quả xảy ra với tình tiết định khung khác.
(iv) Trường hợp chỉ có giấy phép lái xe dân sự điều khiển xe quân sự (loại xe phù hợp với giấy phép lái xe):
Quan điểm thứ nhất cho rằng, trường hợp này bị coi là không có giấy phép lái xe theo quy định, vì theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 8 Thông tư liên tịch số 09/2013/TTLT-BCA-BQP-BTP-VKSNDTC-TANDTC thì không có giấy phép lái xe theo quy định là trường hợp điều khiển phương tiện giao thông không có giấy phép lái xe do cơ quan có thẩm quyền cấp đối với loại phương tiện đang điều khiển mà theo quy định pháp luật, khi điều khiển phương tiện đó phải có giấy phép lái xe phù hợp. Ngoài ra, các điểm a, b khoản 1 Điều 26 Thông tư số 169/2021/TT-BQP ngày 23/12/2021 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định về đăng ký, quản lý, sử dụng xe cơ giới, xe máy chuyên dùng trong Bộ Quốc phòng cũng quy định, người điều khiển xe cơ giới quân sự phải có giấy phép lái xe quân sự phù hợp với loại xe quy định, trừ trường hợp điều khiển xe mang biển số quân sự phục vụ lãnh đạo Đảng, Nhà nước được phép sử dụng giấy phép lái xe dân sự.
Quan điểm thứ hai cũng là quan điểm của tác giả xác định, trường hợp xe quân sự cùng chủng loại với xe dân sự (ví dụ: Cùng là ô tô chở người từ 16 đến 50 chỗ ngồi…) mà người điều khiển được phép điều khiển theo giấy phép lái xe dân sự thì không bị coi là không có giấy phép lái xe theo quy định vì: Điểm a khoản 1 Thông tư liên tịch số 09/2013/TTLT-BCA-BQP-BTP-VKSNDTC-TANDTC chỉ yêu cầu giấy phép lái xe phù hợp với loại phương tiện được quy định tại các khoản 2, 3,4 Điều 59 Luật Giao thông đường bộ (ví dụ, giấy phép lái xe (dân sự) hạng B2 thì được quyền điều khiển xe ô tô chở người đến 9 chỗ ngồi và không phân biệt xe đó là xe dân sự hay xe quân sự). Còn quy định tại Thông tư số 169/2021/TT-BQP ngày 23/12/2021 của Bộ Quốc phòng được áp dụng để xử lý kỷ luật chứ không áp dụng để xử lý hình sự đối với người vi phạm.
Thứ tư, xác định khả năng thực tế dẫn đến hậu quả quy định tại khoản 4 Điều 260 Bộ luật Hình sự. Khoản 4 Điều 260 quy định: “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trong trường hợp có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả quy định tại một trong các điểm a, b và c khoản 3 Điều này nếu không được ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm”. Như vậy, người thực hiện hành vi vi phạm trong trường hợp có khả năng thực tế gây ra hậu quả quy định tại khoản 3 Điều 260 Bộ luật Hình sự nếu không được ngăn chặn kịp thời thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự. So với các Bộ luật Hình sự trước đó, đây không phải là quy định mới trong Bộ luật Hình sự năm 2015, việc Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định như vậy nhằm đáp ứng yêu cầu phòng ngừa tội phạm, nhất là trong giai đoạn hiện nay khi các hành vi vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ diễn biến phức tạp (ví dụ: Hành vi đi ngược chiều trên cao tốc…). Mặc dù Bộ luật Hình sự đã quy định, tuy nhiên trên thực tế các cơ quan tiến hành tố tụng không áp dụng quy định tại khoản 4 Điều 260 Bộ luật Hình sự để xử lý các hành vi vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ do khó khăn trong đánh giá, xác định “trường hợp có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả” vì không có căn cứ cụ thể xác định. Khó khăn này không chỉ ở tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ mà còn có trong một số tội vi phạm quy định được thực hiện dưới hình thức lỗi vô ý khác (tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường sắt”; tội “vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường thủy”…).
Thứ năm, về hình phạt bổ sung. Nghiên cứu về hình phạt bổ sung quy định tại khoản 5 Điều 260 Bộ luật Hình sự năm 2015 thấy rằng: Xét trong mối tương quan với một số tội vi phạm quy định được thực hiện dưới hình thức lỗi vô ý thuộc Chương XXI “Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng” thì tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ không quy định hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Trong khi các tội vi phạm quy định khác được thực hiện dưới hình thức lỗi vô ý quy định hình phạt tiền là hình phạt bổ sung cùng với các hình phạt bổ sung khác như cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định. Tác giả thấy rằng, không quy định hình phạt tiền là hình phạt bổ sung tại khoản 5 Điều 260 Bộ luật Hình sự làm giảm tính răn đe, phòng ngừa đối với tội phạm này trên thực tế.
Thứ sáu, khoản 3 Điều 29 Bộ luật Hình sự quy định về trường hợp miễn trách nhiệm hình sự. Trong đó, trường hợp bị cáo bị xét xử theo khoản 1 Điều 260 Bộ luật Hình sự có thể được xem xét miễn trách nhiệm hình sự khi đủ điều kiện. Đây là quy định có lợi cho người phạm tội, tuy nhiên hiện nay chưa có văn bản nào hướng dẫn trường hợp bị cáo được miễn trách nhiệm hình sự thì vấn đề xử lý giấy phép lái xe có đặt ra không, có tước giấy phép lái xe có thời hạn không? Vấn đề án phí hình sự sơ thẩm sẽ xử lý như thế nào? Điều này thực tế đã gây lúng túng cho công tác xét xử các vụ án vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ.
Thứ bảy, xử lý trách nhiệm hình sự khi thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c, d khoản 2 Điều 260 Bộ luật Hình sự. Quy định tại khoản 2 Điều 260 Bộ luật Hình sự được hiểu, trường hợp phạm tội gây ra hậu quả quy định tại khoản 1 Điều 260 Bộ luật Hình sự nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm: a) “Không có giấy phép lái xe”; b) “Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định, có sử dụng chất ma túy hoặc chất kích thích mạnh khác”; c) “Bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn”; d) “Không chấp hành hiệu lệnh của người điều khiển hoặc hướng dẫn giao thông” thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 260 Bộ luật Hình sự. Quy định như vậy là phù hợp, vì các tình tiết này thể hiện tính chất, mức độ nguy hiểm hành vi của người phạm tội. Tuy nhiên, theo quy định hiện nay tại Điều 260 Bộ luật Hình sự, nếu người phạm tội tuy thuộc các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c, d khoản 2 Điều 260 Bộ luật Hình sự và hậu quả gây ra thuộc trường hợp quy định tại các điểm đ, e, g khoản 2 hoặc khoản 3 Điều 260 Bộ luật Hình sự thì vẫn chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự được quy định tại các điểm, khoản này mà không bị chuyển sang khung hình phạt khác nặng hơn. Tác giả cho rằng, quy định như vậy là chưa phù hợp và đầy đủ, chưa thể hiện sự phân hóa cao trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội.
2. Một số đề xuất, kiến nghị hoàn thiện pháp luật
Trên cơ sở những hạn chế, vướng mắc, bất cập, tác giả có một số kiến nghị, đề xuất như sau:
Một là, hoàn thiện quy định của Luật Giao thông đường bộ về nồng độ cồn. Để có căn cứ xử lý các chủ thể tham gia giao thông đường bộ khác ngoài người điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ phạm tội trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định; đề nghị cơ quan có thẩm quyền bổ sung Điều 8 Luật Giao thông đường bộ quy định về mức nồng độ cồn cho phép đối với người sử dụng phương tiện tham gia giao thông đường bộ; người điều khiển, dẫn dắt súc vật; người đi bộ trên đường bộ vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ (như sang đường không đúng nơi quy định, đi không đúng phần đường dành cho người đi bộ), theo hướng quy định như sau:“Điều khiển, sử dụng phương tiện tham gia giao thông đường bộ mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn. Điều khiển, sử dụng xe ô tô, xe mô tô, xe gắn máy; người điều khiển, dẫn dắt súc vật; người đi bộ trên đường bộ vi phạm quy định về an toàn giao thông mà trong máu có nồng độ cồn vượt quá 50 miligam/100 mililít máu hoặc 0,25 miligam/1 lít khí thở”.
Hai là, đề nghị cơ quan có thẩm quyền có văn bản hướng dẫn áp dụng tình tiết “không có giấy phép lái xe theo quy định” theo hướng:
- Trường hợp bị mất giấy phép lái xe, qua điều tra xác định được tại thời điểm có hành vi vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây ra hậu quả nghiêm trọng, giấy phép lái xe của người điều khiển phương tiện vẫn còn trong thời hạn có giá trị sử dụng thì được coi là có giấy phép lái xe theo quy định. Ngược lại, tại thời điểm người có hành vi vi phạm, gây ra hậu quả nghiêm trọng giấy phép lái xe đã hết giá trị sử dụng thì không được coi là có giấy phép lái xe theo quy định.
- Trường hợp đã thi sát hạch xong thì căn cứ vào ngày cấp giấy phép lái xe (được ghi trên giấy phép lái xe):
+ Nếu thời điểm gây tai nạn đã được cấp (nhưng chưa được nhận) giấy phép lái xe thì coi như có giấy phép lái xe theo quy định.
+ Nếu thời điểm gây tai nạn chưa được nhận và cũng chưa được cấp giấy phép lái xe thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự với tình tiết tăng nặng định khung “Không có giấy phép lái xe theo quy định”.
- Trường hợp chỉ có giấy phép lái xe dân sự nhưng điều khiển xe quân sự: Đối với trường hợp sử dụng giấy phép lái xe để lái những loại xe thông dụng không phải là các loại xe chuyên dụng của Bộ Quốc phòng khi tham gia giao thông thì chỉ cần có giấy phép lái xe phù hợp với loại xe điều khiển do cơ quan có thẩm quyền cấp đúng theo quy định của pháp luật thì được coi là có giấy phép lái xe.
Ba là, đề nghị Hội đồng Thẩm phán tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng khoản 4 Điều 260 Bộ luật Hình sự, thế nào là trường hợp “có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả” (các điều kiện cụ thể, hành vi phạm tội cụ thể) để xử lý trách nhiệm hình sự người phạm tội và áp dụng pháp luật thống nhất. Hướng dẫn áp dụng miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội theo khoản 1 Điều 260 Bộ luật Hình sự, trong đó có vấn đề xử lý vật chứng liên quan đến giấy phép lái xe, vấn đề án phí hình sự đối với người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự.
Bốn là, đề xuất sửa đổi, bổ sung hình phạt tiền là hình phạt bổ sung có thể áp dụng đối với người phạm tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ vào khoản 5 Điều 260 Bộ luật Hình sự.
Năm là, hoàn thiện quy định của Bộ luật Hình sự. Để bảo đảm trách nhiệm hình sự phải tương xứng với tính chất nghiêm trọng của hành vi, có sự phân hóa cao về trách nhiệm hình sự, kiến nghị cấp có thẩm quyền bổ sung các tình tiết định khung hình phạt mới như: Trường hợp gây tai nạn làm chết 01 người, bị thương 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% vào khoản 1 Điều 260 Bộ luật Hình sự; tình tiết định khung mới ở khoản 2 được tính từ sự tổng hợp hậu quả về tính mạng, sức khỏe con người với mức hậu quả về thiệt hại vật chất theo khoản 1 Điều 260 Bộ luật Hình sự; tình tiết định khung mới ở khoản 3 được tính từ sự tổng hợp một trong các điểm a, b, c, đ khoản 2 với mức độ gây hậu quả rất nghiêm trọng ở các điểm d, e, g khoản 2. Ví dụ: Làm chết 01 người và gây thiệt hại về tài sản từ 100 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng thì bị xét xử theo khoản 2 Điều 260 Bộ luật Hình sự; làm chết 02 người và gây thiệt hại về tài sản từ 500 triệu đồng đến dưới 1.500.000 đồng thì xét xử theo khoản 3 Điều 260 Bộ luật Hình sự hoặc làm chết 02 người và không có giấy phép lái xe hợp lệ thì bị xét xử theo khoản 3 Điều 260 Bộ luật Hình sự. Tác giả đề xuất sửa đổi, bổ sung Điều 260 Bộ luật Hình sự như sau:
“Điều 260: Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ.
1. Người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Làm chết 01 người;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;
d) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.
đ) Làm chết 01 người và gây thương tích, tổn hại cho sức khỏe của 01 người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:
a) Không có giấy phép lái xe theo quy định;
b) Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định, có sử dụng chất ma túy hoặc chất kích thích mạnh khác;
c) Bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn;
d) Không chấp hành hiệu lệnh của người điều khiển hoặc hướng dẫn giao thông;
đ) Làm chết 02 người;
e) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến 200%;
g) Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng;
h) Từ 02 trường hợp quy định tại các điểm a, b, c, d khoản 1 Điều này trở lên.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Làm chết 03 người trở lên;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 201% trở lên;
c) Gây thiệt hại về tài sản từ 1.500.000.000 đồng trở lên;
d) Từ 02 trường hợp quy định tại các điểm đ, e, g khoản 2 Điều này trở lên.
4. Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trong trường hợp có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả quy định tại một trong các điểm a, b và c khoản 3 Điều này nếu không được ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm”.
ThS. Lê Đình Nghĩa
Tòa án quân sự Khu vực 1 Quân khu 5
[1] Khoản 7, khoản 8 Điều 8 Luật Giao thông đường bộ; khoản 6 Điều 5, Điều 35 Luật Phòng, chống tác hại của rượu, bia.