Tóm tắt: Bài viết phân tích, chỉ ra một số bất cập trong các quy định của pháp luật về công tác quản lý bị can, bị cáo trong các trại tạm giam và đề xuất ý kiến nhằm hoàn thiện các quy định này trong thời gian tới.
Abstract: The article analyzes and points out some shortcomings in the legal provisions on the management of accused and defendants in detention camps and proposes ideas to improve these regulations in the near future.
Từ năm 2015 đến năm 2022, công tác quản lý người bị tạm giam nói chung, quản lý bị can, bị cáo trong các trại tạm giam nói riêng được thực hiện theo quy định của Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015. Các văn bản quy phạm pháp luật và văn bản hướng dẫn trong ngành Công an đã góp phần quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong tổ chức quản lý bị can, bị cáo trong các trại tạm giam. Tuy nhiên, hệ thống các văn bản, quy phạm pháp luật đó vẫn còn những nội dung chưa phù hợp với thực tiễn hoặc chưa cụ thể, chưa rõ ràng nên quá trình áp dụng còn gặp không ít khó khăn, thậm chí không thực hiện được. Vì vậy, trong phạm vi giới hạn của bài viết, tác giả phân tích những hạn chế dưới đây và đề xuất hoàn thiện quy định pháp luật về công tác quản lý bị can, bị cáo trong các trại tạm giam.
1. Thông báo hết thời hạn tạm giam
Theo điểm h khoản 1 Điều 13 Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015, trại tạm giam có nhiệm vụ: “Thông báo bằng văn bản cho cơ quan đang thụ lý vụ án 01 ngày trước khi hết thời hạn tạm giữ, gia hạn tạm giữ, 05 ngày trước khi hết thời hạn tạm giam, 10 ngày trước khi hết thời hạn gia hạn tạm giam…”. Tuy nhiên, trên thực tế các trại tạm giam khó thực hiện đúng quy định này một cách triệt để, vì thời hạn ngắn, việc thông báo, đôn đốc, trao đổi, chủ yếu bằng điện thoại cho cơ quan đang thụ lý, sau đó mới làm văn bản thông báo, dẫn đến việc vi phạm trên thực tế tương đối phổ biến. Vì vậy, đề nghị chỉnh sửa thời hạn thông báo khi hết thời hạn tạm giam tại điểm h khoản 1 Điều 13 Luật Thi hành tạm giữ năm 2015, tạm giam để bảo đảm thuận tiện trong thực tiễn áp dụng.
2. Khám sức khỏe cho bị can, bị cáo
Khoản 2 Điều 16 Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015 quy định: Khi tiếp nhận người bị tạm giữ, người bị tạm giam, cơ sở giam giữ có trách nhiệm: “Lập biên bản giao nhận người bị tạm giữ, người bị tạm giam, tài liệu, hồ sơ kèm theo; tổ chức khám sức khỏe…”. Quy định này được hiểu là ngay khi tiếp nhận người bị tạm giữ, tạm giam, cơ sở giam giữ phải tổ chức khám sức khỏe cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam để bảo đảm quyền lợi chính đáng của người bị tạm giữ, người bị tạm giam và là cơ sở phân loại giam giữ. Tuy nhiên, việc khám sức khỏe cho người bị tạm giữ, tạm giam nói chung, cho bị can, bị cáo nói riêng đòi hỏi cán bộ y tế phải có chuyên môn cùng với các phương tiện y tế cần thiết. Ngoài ra, trong quá trình khám do không có cán bộ y tế chuyên trách nên cơ bản là kiểm tra các dấu vết bên ngoài, không thể xác định được người bị tạm giữ, tạm giam có bị bệnh truyền nhiễm nguy hiểm, người đồng tính hay chuyển giới để phân loại giam, giữ riêng. Vì vậy, nếu quy định phải tổ chức khám sức khỏe cho bị can, bị cáo sẽ vô hình trung gây khó khăn cho các trại tạm giam. Vì vậy, cần phải quy định rõ hơn nội dung này để phù hợp với tình hình thực tế của các trại tạm giam.
3. Lập danh bản, chỉ bản của bị can, bị cáo
Khoản 3 Điều 16 Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015 quy định: Khi tiếp nhận người bị tạm giữ, người bị tạm giam, cơ sở giam giữ có trách nhiệm: “Chụp ảnh, lập danh bản, chỉ bản và vào sổ theo dõi người bị tạm giữ, người bị tạm giam”. Tuy nhiên, quy định hiện hành chưa quy định cụ thể về thời hạn lập danh bản, chỉ bản nên có thể dẫn đến việc thực hiện không thống nhất giữa các đơn vị hoặc giữa các thời điểm trong cùng một đơn vị và phụ thuộc vào nhận thức của người thực hiện, theo đó cũng gây khó khăn cho công tác kiến nghị yêu cầu khắc phục của Viện kiểm sát, thậm chí có những trường hợp bị can, bị cáo ở trong các trại tạm giam trong thời gian dài nhưng chưa tiến hành lập danh bản, chỉ bản. Do vậy, cần có hướng dẫn quy định rõ về thời hạn lập danh bản, chỉ bản để thống nhất trong việc thực hiện hoạt động này.
4. Xây dựng hồ sơ tạm giam đối với bị can, bị cáo
Tại Điều 17 Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam quy định về hồ sơ quản lý tạm giữ, tạm giam quy định: “Tài liệu khác có liên quan” thì đó là tài liệu gì? Quy định này dẫn đến cách hiểu không thống nhất giữa các cơ quan hoạt động tố tụng hình sự; đôi lúc gây khó khăn trong quá trình áp dụng để làm căn cứ yêu cầu cơ sở giam giữ thực hiện. Do vậy, cần có hướng dẫn cụ thể về “tài liệu khác có liên quan” bao gồm những tài liệu cụ thể nào.
5. Trích xuất và bàn giao bị can, bị cáo trong thời gian trích xuất
Khoản 4 Điều 20 Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015 quy định: “Cơ sở giam giữ có trách nhiệm kiểm tra, bàn giao người bị tạm giữ, người bị tạm giam cho cơ quan, người có nhiệm vụ áp giải. Cơ quan, người có nhiệm vụ áp giải có trách nhiệm bàn giao người được trích xuất cho người có thẩm quyền ra lệnh trích xuất. Việc giao nhận phải được lập biên bản”.
Theo quy định trên, việc trích xuất bị cáo đang bị tạm giam đi xét xử phải có ít nhất bốn biên bản bàn giao: Biên bản cơ sở giam giữ giao người bị tạm giam cho lực lượng áp giải khi trích xuất ra khỏi cơ sở giam giữ; biên bản giao giữa lực lượng áp giải cho thẩm phán chủ tọa phiên tòa (người có thẩm quyền trích xuất); biên bản giao giữa người có thẩm quyền trích xuất với lực lượng áp giải sau khi kết thúc phiên tòa; biên bản giao giữa lực lượng áp giải với cơ sở giam giữ sau khi kết thúc việc áp giải. Theo quy định hiện hành, cơ quan có nhiệm vụ áp giải phối hợp với cơ sở giam giữ và người có thẩm quyền ra lệnh trích xuất quản lý người bị trích xuất. Đồng thời, đề cập việc trích xuất người bị can, bị cáo ra ngoài trại tạm giam, cơ quan áp giải phải có kế hoạch áp giải, quản lý; trường hợp trích xuất nhiều người, tội phạm rất nghiêm trọng... thì cơ quan, người có nhiệm vụ áp giải phải có kế hoạch để bảo đảm tuyệt đối an toàn. Như vậy, theo quy định trên thì việc quản lý, bảo đảm an toàn cho bị can, bị cáo ra khỏi trại tạm giam đều do lực lượng áp giải thực hiện và chịu trách nhiệm và trên thực tế thì chỉ lực lượng đó mới có đủ khả năng để quản lý và bảo đảm an toàn cho bị can, bị cáo. Do đó, việc lập biên bản bàn giao người cho người có thẩm quyền trích xuất là không cần thiết và người có thẩm quyền trích xuất (trong trường hợp là thẩm phán) cũng không đủ khả năng để quản lý, bảo đảm an toàn cho bị can, bị cáo trong suốt thời gian trích xuất.
6. Trả tự do cho bị can, bị cáo
Đề nghị bổ sung khoản 3 Điều 13 Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam theo hướng: “Giám thị trại tạm giam có quyền từ chối việc thi hành lệnh, quyết định tạm giam, trả tự do khi có căn cứ xác định là trái pháp luật”. Quy định như vậy sẽ khắc phục tình trạng vi phạm quy định pháp luật về tạm giam, bảo đảm quyền tự do dân chủ của công dân. Mặt khác, việc trao quyền cho giám thị trại tạm giam từ chối việc thi hành lệnh, quyết định tạm giam, trả tự do khi biết là trái pháp luật nhằm nâng cao trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền trong việc ra lệnh, phê chuẩn lệnh, quyết định tạm giam, trả tự do cũng như trách nhiệm của các trại tạm giam trong thi hành quyết định tạm giam hoặc trả tự do cho bị can, bị cáo. Thực tế có trường hợp giám thị trại tạm giam đã thông báo việc hết hạn tạm giam đối với đối tượng cho cơ quan tiến hành tố tụng đang thụ lý vụ án nhưng đến ngày hết thời hạn tạm giam của bị can, bị cáo, cơ quan tiến hành tố tụng đang thụ lý vụ án vẫn không ra quyết định (gia hạn, hủy bỏ hoặc thay thế). Việc kiến nghị lên Viện kiểm sát chưa có kết quả. Trong trường hợp này, tiếp tục giam giữ là tạm giam quá hạn, vi phạm các quyền của công dân. Việc này sẽ khắc phục tình trạng tạm giam quá hạn, bảo đảm quyền tự do dân chủ của công dân và đề cao trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng đang thụ lý vụ án và trách nhiệm của giám thị trại tạm giam trong việc giam giữ bị can, bị cáo.
7. Chế độ của bị can, bị cáo
Điều 27 Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015 quy định về chế độ ăn, ở của người bị tạm giam có quy định sử dụng điện. Ngoài ra, Nghị định số 120/2017/NĐ-CP ngày 06/11/2017 của Chính phủ quy định định mức sử dụng điện là 45kW/h điện và 3m3 nước trên một đầu người. Thực tế hiện nay cho thấy, các buồng tạm giam không có công tơ điện riêng, không có đồng hồ đo nước riêng mà sử dụng điện, nước chung với đơn vị, do đó gây khó khăn cho quá trình thực hiện chế độ này cho bị can, bị cáo.
Mặt khác, việc quy định định mức sử dụng điện cho 1 người là chưa phù hợp, bởi thực tế dù trong 1 buồng tạm giam, số lượng điện tiêu thụ hầu như không thay đổi và không phụ thuộc vào số người có trong buồng giam đó mà phụ thuộc phần lớn vào số thiết bị sử dụng điện được trang bị cho buồng giam cũng như số thời gian được cung cấp điện và sử dụng thiết bị điện. Do đó, nếu cứ áp dụng quy định này thì rất dễ dẫn đến vi phạm của cơ sở giam giữ bởi số lượng người trong các buồng tạm giam luôn có sự thay đổi, không thể lúc nào cũng bằng nhau.
Đối với chế độ ăn, khoản 1 Điều 4 Nghị định số 113/2021/NĐ-CP ngày 14/12/2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 120/2017/NĐ-CP ngày 06/11/2017 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam đã quy định định mức ăn trong một tháng của người bị tạm giam theo từng chủng loại thực phẩm và quy định định mức trên được quy đổi ra tiền theo thời giá thị trường ở địa phương nơi giam giữ. Tuy nhiên, việc ấn định một số định lượng của một số loại thực phẩm không thực tế. Chẳng hạn, quy định định lượng muối, đường đều là 0,5kg/tháng, nước chấm 0,75l/tháng là không phù hợp với nhu cầu thực tế, cần có sự điều chỉnh giảm lượng thực phẩm trên và tăng loại thực phẩm khác như rau xanh, thịt, cá... Bên cạnh đó, do việc quy định định lượng thực phẩm trên tính theo tháng cũng gây khó khăn cho quá trình tổ chức thực hiện chế độ, chính sách và hoạt động kiểm tra giám sát, bởi khi kiểm tra bữa ăn, nếu không bảo đảm lượng thức ăn thì cơ sở giam giữ cho rằng sẽ bù vào bữa khác trong ngày (nếu kiểm tra bữa trưa thì nói sẽ bù vào bữa tối, nếu kiểm tra bữa tối thì nói đã bù ở bữa trưa để bảo đảm thuận lợi cho việc mua và chế biến thực phẩm...). Do vậy, chỉ kiểm tra trên sổ cấp phát và giao nhận thực phẩm, nên rất khó phát hiện vi phạm trong việc thực hiện chế độ ăn cho người bị tạm giam. Để khắc phục vướng mắc này, cần quy định định lượng gam gạo bữa cho từng người một bữa ăn và quy định giá trị thức ăn của một bữa ăn của một người, đồng thời, quy định các thành phần bắt buộc trong một bữa ăn để bảo đảm dinh dưỡng để các cơ sở giam giữ thuận tiện trong việc bố trí thực đơn bữa ăn cho phù hợp với đặc điểm vùng miền, mùa vụ và cung cấp đủ dinh dưỡng cho người bị tạm giam.
ThS. Phạm Đức Huyên
Học viện Cảnh sát nhân dân
(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 1 (Số 382), tháng 6/2023)