Quyền bào chữa của bị cáo trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam đã được hình thành từ rất sớm, được hướng dẫn bởi các sắc lệnh. Đây chính là những văn bản pháp lý đầu tiên đặt nền móng cho việc ghi nhận, bảo đảm về quyền bào chữa của người bị buộc tội. Sắc lệnh số 33C ngày 13/9/1945 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa về việc thành lập Tòa án quân sự trong phạm vi cả nước quy định: “Bị cáo có thể tự bào chữa hay nhờ một người khác bênh vực cho mình” (Điều 5) và Sắc lệnh số 46 ngày 10/10/1945 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa về tổ chức đoàn thể luật sư quy định: “Các luật sư có quyền bào chữa ở trước tất cả các tòa án hàng tỉnh trở lên và trước các tòa án quân sự” (Điều thứ 2). Tinh thần này tiếp tục được ghi nhận chính thức trong bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946 với nội dung: “Người bị cáo được quyền tự bào chữa lấy hoặc mời luật sư” (Điều 67). Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự là nguyên tắc hiến định, được ghi nhận tại tất cả các bản Hiến pháp của Việt Nam. Việc ghi nhận, thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự đã tạo cơ sở pháp lý vững chắc trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo, đồng thời giúp các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ án hình sự đúng đắn, khách quan, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, góp phần nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp[2]. Các văn bản này quy định cụ thể từng nội dung quyền bào chữa, qua đó là nền tảng lý luận cơ bản và quan trọng để hoàn thiện quyền bào chữa của bị cáo trong Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam.
Đối với quyền bào chữa của bị cáo, so với các bản Hiến pháp trước, Hiến pháp năm 2013 không chỉ quy định vấn đề này ở Chương VIII - “Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân” (tại khoản 7 Điều 103) mà còn được bổ sung và đặt trong Chương II - “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” (tại khoản 4 Điều 31) để khẳng định quyền bào chữa là một trong những quyền con người, quyền công dân quan trọng nhất của người bị buộc tội nói chung và bị cáo nói riêng. Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2021 (sau đây gọi là Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015) đã ghi nhận nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội tại Điều 16: “Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa. Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thông báo, giải thích và bảo đảm cho người bị buộc tội, bị hại, đương sự thực hiện đầy đủ quyền bào chữa, quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của Bộ luật này”.
Quyền nhờ người bào chữa của người bị buộc tội, trong đó có bị cáo cũng được quy định cụ thể hơn, đó là có thể nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa. Trong những trường hợp luật định, nếu bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời người bào chữa thì các cơ quan nói trên phải yêu cầu, đề nghị chỉ định người bào chữa cho họ. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cũng nâng cao trách nhiệm của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội nói chung và bị cáo nói riêng. Không chỉ có trách nhiệm bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ như trước mà Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã nêu rõ, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trước hết phải thông báo, giải thích đầy đủ cho người bị buộc tội biết về quyền bào chữa của họ, từ đó mới có thể bảo đảm cho họ được thực hiện tốt quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa của mình. Trong phạm vi nghiên cứu, nhóm tác giả nêu ra những nội dung cần hoàn thiện quy định pháp luật sau:
1. Về hoạt động bào chữa của bị cáo
Thứ nhất, bổ sung quy định về quyền của người bị buộc tội là bị cáo có quyền: “Đọc, ghi chép bản sao tài liệu hoặc tài liệu được số hóa liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội hoặc bản sao tài liệu khác liên quan đến việc bào chữa” tại Điều 61 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Quyền này tuy đã được Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định tại điểm i khoản 1 Điều 60, theo đó, bị can có quyền: “Đọc, ghi chép bản sao tài liệu hoặc tài liệu được số hóa liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội hoặc bản sao tài liệu khác liên quan đến việc bào chữa kể từ khi kết thúc điều tra khi có yêu cầu” nhưng lại không quy định cho bị cáo có quyền này. Theo quan điểm của nhóm tác giả, không những bị can mà bị cáo rất cần được nghiên cứu hồ sơ trong tất cả các giai đoạn tố tụng, nhất là giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự để bảo đảm tính khách quan của các tình tiết, chứng cứ có trong vụ án, hơn nữa bảo đảm tính dân chủ, công bằng trong hoạt động bào chữa của bị cáo tại phiên tòa.
Thứ hai, mở rộng hơn quyền đặt câu hỏi của bị cáo tại điểm i khoản 2 Điều 61 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và các quy định khác có liên quan.
Theo quan điểm của nhóm tác giả, việc thực hiện đặt câu hỏi của bị cáo không nên bị giới hạn bởi việc cho phép của chủ tọa phiên tòa mà cần mở rộng theo hướng, bị cáo có quyền đặt câu hỏi đối với những người tham gia tố tụng khác, chủ tọa phiên tòa có quyền cắt những câu hỏi trùng lặp, không liên quan đến vụ án mà bị cáo đưa ra. Quy định như vậy sẽ bảo đảm được quyền tự do trình bày của bị cáo, bảo đảm quyền công bằng, dân chủ đối với bị cáo. Do đó, cần sửa đổi điểm i khoản 2 Điều 61 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 theo hướng, bị cáo có quyền “đặt câu hỏi đối với những người tham gia tố tụng khác, chủ tọa phiên tòa có quyền cắt những câu hỏi trùng lặp, không liên quan đến vụ án”.
Thứ ba, bổ sung quyền được ghi chép, sử dụng các tài liệu theo quy định pháp luật tại phiên tòa cho bị cáo.
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã bổ sung các quyền của bị cáo để tạo điều kiện cho bị cáo thực hiện các hoạt động bào chữa cho mình trong tố tụng hình sự cũng như trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Tuy nhiên, để bảo đảm cho hoạt động bào chữa tại phiên tòa nên cho phép bị cáo thực hiện việc ghi chép lại nội dung, diễn biến vụ án tại phiên tòa mà bị cáo cho là cần thiết để thực hiện việc tranh luận cũng như bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho mình. Đồng thời, cho phép bị cáo được sử dụng các văn bản quy định pháp luật, các tài liệu liên quan khác để thực hiện hoạt động bào chữa cho mình trong tố tụng hình sự, nhất là tại phiên tòa xét xử. Việc bổ sung quy định này bảo đảm được tính khách quan, dân chủ tại phiên tòa cũng như giúp bị cáo nắm rõ được diễn biến của phiên tòa và nội dung buộc tội của Viện kiểm sát, từ đó thuận lợi hơn cho hoạt động bào chữa của mình. Mặt khác, trong hoạt động tranh tụng thì bị cáo phải tham gia tranh tụng, đối đáp với bên buộc tội là Viện kiểm sát (cơ quan có kiến thức pháp luật và có đầy đủ hồ sơ vụ án) nên có thể thực hiện việc viện dẫn tài liệu, chứng cứ và căn cứ pháp luật dễ dàng hơn. Vì vậy, theo quan điểm của nhóm tác giả, việc bổ sung quyền được ghi chép và sử dụng các tài liệu liên quan tại phiên tòa của bị cáo là cần thiết.
Thứ tư, bổ sung quyền của bị cáo “được biết các kết quả của hoạt động điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự” tại điểm a khoản 2 Điều 61 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Tại Điều 60, Điều 232, Điều 238, Điều 245 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định bị can có quyền được nhận các kết quả của hoạt động điều tra bổ sung như bản kết luận điều tra bổ sung, bản cáo trạng bổ sung hoặc các quyết định khác trong hoạt động điều tra bổ sung nhưng lại không quy định cho bị cáo có quyền nhận các quyết định trên. Nếu các quyết định này không được giao cho bị cáo thì trong hoạt động bào chữa của mình, bị cáo không thực hiện được đầy đủ các quyền sẽ ảnh hưởng đến hoạt động bào chữa cũng như việc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp cho bị cáo. Vì vậy, nên bổ sung quy định các kết quả của hoạt động điều tra bổ sung của cơ quan tiến hành tố tụng phải được giao cho bị cáo.
Thứ năm, về quyền tự bào chữa của bị cáo: Tuy quyền này được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 61 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 nhưng không quy định cụ thể quyền này sẽ được thực hiện như thế nào. Trong trường hợp bị cáo nhờ người bào chữa, người bào chữa có quyền thu thập chứng cứ, tài liệu, đồ vật. Vậy, trường hợp bị cáo tự bào chữa thì bị cáo có các quyền đó không, hay chỉ được quyền đưa ra chứng cứ theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 61 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015? Theo quan điểm của nhóm tác giả, cần có các quy định cụ thể về nội dung này theo hướng, bổ sung quyền được thu thập chứng cứ, đồ vật, tài liệu của bị cáo để bảo đảm tốt hơn quyền tự bào chữa của bị cáo.
2. Về hoạt động bào chữa của người bào chữa
Thứ nhất, bổ sung các chế tài tương ứng với các quyền của người bào chữa.
Thực tiễn trong hoạt động bào chữa, luật sư thực hiện các quyền như sao chụp hồ sơ vụ án; gặp, trao đổi với bị can, bị cáo; thu thập tài liệu, chứng cứ… còn gặp khó khăn do có lúc, có nơi, cơ quan tiến hành tố tụng có hành vi cản trở, không hỗ trợ cho luật sư thực hiện công việc. Hoặc có trường hợp khi luật sư đi thu thập tài liệu, chứng cứ có liên quan đến vụ án thì cơ quan, tổ chức đang lưu giữ các tài liệu, chứng cứ này không cung cấp các tài liệu, chứng cứ mà họ đang nắm giữ, nhiều trường hợp còn từ chối tiếp nhận yêu cầu cung cấp tài liệu của luật sư. Pháp luật hiện nay chưa có chế tài cũng như quy định về trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng, cá nhân, tổ chức khác có hành vi cản trở, gây khó khăn cho hoạt động của luật sư hoặc các hành vi cố tình che giấu, không cung cấp các tài liệu, chứng cứ của các cá nhân, tổ chức khi luật sư bào chữa vụ án liên quan có yêu cầu. Vì vậy, để bảo đảm cho việc giải quyết vụ án được kịp thời, nhanh chóng, khách quan và đúng pháp luật, tránh trường hợp dẫn đến oan, sai trong tố tụng hình sự, cần bổ sung các quy định về chế tài đối với những cá nhân, cơ quan, tổ chức có hành vi cản trở, gây khó khăn khi luật sư thực hiện các quyền để bào chữa cho bị cáo.
Thứ hai, quy định rõ hơn trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng trong việc thực hiện việc thu thập chứng cứ, tài liệu khi luật sư không thể thu thập được.
Theo điểm k khoản 1 Điều 73, khoản 3 Điều 81 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định về quyền thu thập chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc bào chữa, trường hợp không thể thu thập được thì người bào chữa có thể đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập. Có thể nói rằng, đây là một quy định tiến bộ, tạo điều kiện cho luật sư thực hiện hoạt động bào chữa của mình, tuy nhiên, hoạt động này lại phụ thuộc vào yếu tố chủ quan từ phía cơ quan tiến hành tố tụng. Mặt khác, chưa có quy định về trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng trong việc thực hiện hoạt động thu thập tài liệu, chứng cứ khi có đề nghị của luật sư. Cũng như chưa có quy định về việc luật sư đề nghị cơ quan tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, tài liệu nhưng không thu thập được do cá nhân, cơ quan, tổ chức đang nắm giữ chứng cứ, tài liệu không cung cấp. Việc không thực hiện hoạt động thu thập chứng cứ, tài liệu hoặc không thu thập được của cơ quan tiến hành tố tụng có ảnh hưởng không nhỏ đến việc giải quyết khách quan của vụ án, bảo đảm quyền, lợi ích của người bị buộc tội và sẽ dẫn đến oan, sai trong tố tụng hình sự. Nếu cơ quan tiến hành tố tụng gây khó khăn cho người bào chữa hoặc không thực hiện ngay mà kéo dài thời gian hoặc không thực hiện vì cho rằng, tài liệu, đồ vật mà người bào chữa yêu cầu thu thập là không cần thiết. Đồng thời, cơ quan tiến hành tố tụng cũng không có nghĩa vụ phải thông báo kết quả thu thập chứng cứ với người bào chữa vì pháp luật không có quy định. Như vậy, để khắc phục những hạn chế này, cần có các quy định cụ thể về trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc thông báo bằng văn bản cho người bào chữa về kết quả thu thập chứng cứ, tài liệu, đồ vật trong trường hợp người bào chữa đề nghị; quy định rõ ràng về chế tài đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân thiếu trách nhiệm, thiện chí, cố ý không cung cấp chứng cứ theo yêu cầu, đề nghị của người bào chữa mà không có lý do chính đáng, trừ trường hợp chứng cứ, tài liệu đó thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác hoặc thuộc trường hợp pháp luật quy định cơ quan, tổ chức, cá nhân không phải cung cấp. Vì vậy, việc bổ sung các quy định về trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng là cần thiết.
Thứ ba, quy định chi tiết, cụ thể về quyền “gặp, hỏi người bị buộc tội” tại điểm a khoản 1 Điều 73 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Quy định này còn chung chung đã gây không ít khó khăn cho hoạt động gặp, hỏi, trao đổi với người bị buộc tội của luật sư. Mặt khác, chưa có quy định hướng dẫn về hoạt động gặp, hỏi này được thực hiện theo trình tự, thủ tục hay quy định nào. Ví dụ: Quy định về thời gian, trình tự, thủ tục luật sư gặp người bị buộc tội, việc gặp này là gặp riêng hay có sự giám sát của cán bộ tư pháp và quy định về bảo đảm bí mật thông tin trao đổi giữa luật sư và người bị buộc tội không? Chính việc chưa có quy định về hoạt động này đã gây khó khăn cho luật sư khi thực hiện gặp mặt đối với những người bị buộc tội đang bị tạm giam, tạm giữ theo đúng trình tự của tố tụng. Theo quan điểm của nhóm tác giả, cũng như ở một số nước phát triển, việc gặp gỡ giữa luật sư và người bị buộc tội được tổ chức gặp riêng để bảo đảm bí mật thông tin trao đổi và có quy định về trình tự, thủ tục rõ ràng.
Thứ tư, sửa đổi quy định về sự có mặt của luật sư bào chữa tại phiên tòa.
Tại Điều 291 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “… Nếu người bào chữa vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan hoặc được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì Tòa án vẫn mở phiên tòa xét xử”. Quy định này chưa phù hợp, bởi vì, mở phiên tòa trong trường hợp này sẽ không bảo đảm được quyền bào chữa cho bị cáo cũng như việc giải quyết khách quan của vụ án. Theo quan điểm của nhóm tác giả, nên quy định luật sư vắng mặt lần thứ hai mà có lý do chính đáng hoặc trở ngại khách quan thì Tòa án quyết định hoãn phiên tòa, trường hợp nếu luật sư đã gửi trước bản bào chữa và bị cáo đồng ý thì Tòa án vẫn mở phiên tòa xét xử bình thường. Vì vậy, nên sửa đổi Điều 291 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 theo hướng: “… Trường hợp người bào chữa vắng mặt lần thứ nhất vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan thì Tòa án phải hoãn phiên tòa và triệu tập lần thứ hai. Nếu người bào chữa vắng mặt lần thứ hai cũng vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan thì Tòa án vẫn tiếp tục hoãn phiên tòa. Trường hợp vắng mặt lần thứ hai mà không vì lý do bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan nhưng người bào chữa đã gửi bản bào chữa thì Tòa án vẫn mở phiên tòa xét xử”.
Thứ năm, về quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa: Điều 88 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “Để thu thập chứng cứ, người bào chữa có quyền gặp người mà mình bào chữa, bị hại, người làm chứng và những người khác biết về vụ án để hỏi, nghe họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án; đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào chữa”. Do vậy, cần đặt ra các quy định về biện pháp, trình tự thu thập chứng cứ của người bào chữa, tránh trường hợp người bào chữa thu thập chứng cứ để bào chữa cho bị cáo tại phiên tòa nhưng những tài liệu, đồ vật đưa ra lại không được sử dụng làm chứng cứ do không thỏa mãn thuộc tính hợp pháp. Mặt khác, cần bổ sung quy định về mức xử lý đối với hành vi cản trở, cố tình che giấu, không cung cấp chứng cứ hay làm gián đoạn quá trình thu thập chứng cứ, tài liệu, đồ vật của người bào chữa nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho bị cáo.
Thứ sáu, bổ sung quy định về trình tự cử bào chữa viên nhân dân.
Theo khoản 2 Điều 72 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì người bào chữa có thể là: Luật sư, người đại diện của người bị buộc tội, bào chữa viên nhân dân, trợ giúp viên pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý. Sự mở rộng các đối tượng được tham gia bào chữa cho người bị buộc tội nói chung, bị cáo nói riêng là một trong những điểm tích cực của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Tuy nhiên, trên thực tế, người bào chữa chủ yếu thuộc hai nhóm đối tượng là luật sư và trợ giúp viên pháp lý. Về hai nhóm chức danh tư pháp này cũng đã có luật điều chỉnh cụ thể. Tuy nhiên, đối với bào chữa viên nhân dân thì vẫn còn nhiều vướng mắc trong quá trình áp dụng. Theo khoản 3 Điều 72 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì “bào chữa viên nhân dân là công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên, trung thành với Tổ quốc, có phẩm chất đạo đức tốt, có kiến thức pháp lý, đủ sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao, được Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hoặc tổ chức thành viên của Mặt trận cử tham gia bào chữa cho người bị buộc tội là thành viên của tổ chức mình” nhưng Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp nào được cử và cử như thế nào thì chưa có quy định cụ thể. Vì vậy, cần phải xây dựng các quy định về trình tự cử bào chữa viên nhân dân.
3. Về bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo
Thứ nhất, bổ sung cơ chế bảo đảm cho việc giải thích quyền, nghĩa vụ cho bị cáo. Theo đó, giải thích quyền, nghĩa vụ cho bị cáo là một quy định bắt buộc của Tòa án. Tuy nhiên, cần lưu ý đây là vấn đề “giải thích” mà không phải “thông báo”. Thực tế cho thấy, các Tòa án chỉ mới thông báo về quyền, nghĩa vụ của bị cáo. Cùng với đặc điểm về hiểu biết pháp luật, tâm lý… của bị cáo nên hầu hết các bị cáo chưa hiểu rõ, hiểu hết những quyền của mình, trong đó có quyền bào chữa. Chính vì vậy, cần có giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động này. Cụ thể, nên bổ sung quy định: “Việc giải thích quyền và nghĩa vụ cho bị cáo phải được lập biên bản và lưu vào hồ sơ vụ án”.
Thứ hai, bổ sung quy định về việc gửi, thông báo các văn bản tố tụng cho người bào chữa. Hiện nay, pháp luật chưa quy định trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng trong việc tống đạt, thông báo cho người bào chữa một số văn bản liên quan đến quyền lợi của bị cáo: Quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ, quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn… Đây là những quyết định ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của bị cáo và cần phải thông báo cho người bào chữa để thực hiện chức năng bào chữa của mình.
Thứ ba, chưa có chế tài trong trường hợp có sự vi phạm quyền của người bào chữa. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã ghi nhận khá đầy đủ về quyền cũng như nghĩa vụ của người bào chữa, góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho người bào chữa trong khi tham gia tố tụng. Tuy nhiên, thực tế có trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng đã vi phạm, gây khó dễ cho người bào chữa. Việc này gây ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động bào chữa. Do đó, cần bổ sung chế tài cho việc vi phạm quyền của người bào chữa theo hướng, ghi nhận đây là trường hợp vi phạm thủ tục tố tụng.
Thứ tư, các điều 232, 238 và 245 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định bị can được biết kết quả hoạt động điều tra bổ sung thông qua việc giao nhận kết luận điều tra bổ sung hoặc kết luận điều tra, bản cáo trạng mới mà không quy định cho bị cáo quyền tương tự trong trường hợp Tòa án tự bổ sung, thu thập chứng cứ hoặc yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung (Điều 252, Điều 284). Kết quả điều tra bổ sung chứa đựng những chứng cứ, tài liệu, thông tin mà bị cáo cần phải biết để chủ động trong việc bào chữa. Do đó, nên bổ sung vào khoản 7 Điều 252 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 như sau: “Kết quả xác minh, thu thập chứng cứ của Tòa án phải được thông báo cho bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác có liên quan. Bị cáo, người bào chữa có quyền đọc, ghi chép, sao chụp các tài liệu đó”; đồng thời, bổ sung vào khoản 4 Điều 284 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 với nội dung tương tự.
Thứ năm, hoàn thiện quy định về thủ tục đăng ký bào chữa. Điều 78 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định người bào chữa chỉ cần đăng ký với cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Tuy nhiên, quy định này còn chung chung, chưa xác định rõ trách nhiệm trong việc cấp đăng ký bào chữa là người nào trong các cơ quan tiến hành tố tụng. Điều này dẫn đến những khó khăn cho người bào chữa, nếu có vi phạm cũng không có cơ sở xử lý trách nhiệm đối với cá nhân vi phạm. Mặc dù, việc cấp giấy chứng nhận làm tăng tính chủ động hơn cho người bào chữa khi tham gia tố tụng để bảo vệ quyền lợi cho người bị buộc tội nhưng quy định này vẫn mang tính chất “xin - cho” giữa người bào chữa với cơ quan tố tụng. Nhóm tác giả đồng tình với quan điểm cho phép những người có thể là người bào chữa theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 được người bị buộc tội nhờ bào chữa thì đương nhiên có quyền tham gia tố tụng. Nếu thuộc các trường hợp không được bào chữa theo khoản 4 Điều 72 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, người bị buộc tội thuộc trường hợp chỉ định người bào chữa từ chối người bào chữa hoặc có vi phạm pháp luật khi tiến hành bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thông báo dừng việc bào chữa của người bào chữa và nêu rõ lý do theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, đồng thời, thông báo để người bị buộc tội lựa chọn người bào chữa khác hoặc được chỉ định người bào chữa khác theo quy định tại Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015[3].
Thứ sáu, trình tự tố tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm và phúc thẩm phải được tiến hành trên tinh thần tôn trọng nguyên tắc bảo đảm tính tranh tụng, dân chủ. Thủ tục tranh tụng tại phiên tòa (từ Điều 306 đến Điều 304 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015) cần được sửa đổi theo hướng tập trung vào hoạt động tranh tụng giữa bị cáo và người bào chữa với bên buộc tội, bảo đảm tốt nhất quyền tự bào chữa và nhờ người khác bào chữa của bị cáo. Các bên tham gia phiên tòa thực hiện quyền đưa ra các chứng cứ và tiến hành hoạt động tranh luận, đối đáp. Thẩm phán đóng vai trò là trọng tài, điều khiển và định hướng hoạt động tranh tụng giữa các bên diễn ra tại phiên tòa. Trách nhiệm của thẩm phán là xem xét các chứng cứ trong hồ sơ vụ án, chứng cứ mới được cung cấp tại phiên tòa và quá trình tranh luận giữa các bên để đưa ra phán quyết. Kết luận của cơ quan điều tra và Viện kiểm sát là cơ sở pháp lý ban đầu để đưa ra xét xử, nhưng phán quyết như thế nào thì không chỉ dựa vào kết quả này mà cần phải xem xét quá trình tranh tụng giữa Viện kiểm sát với bị cáo và người bào chữa tại phiên tòa. Điều này đề cao vai trò tranh tụng của các bên, đồng thời nâng cao tính khách quan cho bản án. Tuy nhiên, hội đồng xét xử hoàn toàn không được xem nhẹ quan điểm, lý lẽ và các chứng cứ mà bị cáo, người bào chữa trình bày tại phiên tòa, đó cũng là những yếu tố quan trọng để hội đồng xét xử đánh giá toàn diện, đa chiều và đúng đắn vụ án, từ đó đưa ra phán quyết bảo đảm sự công minh, chính xác.
Thứ bảy, về việc giải quyết đề nghị hoãn phiên tòa để nhờ người bào chữa của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm. Trên thực tế, có trường hợp trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm, bị cáo đều không nhờ người bào chữa nhưng tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo đề nghị hoãn phiên tòa để nhờ người bào chữa tham gia tranh tụng bảo vệ quyền lợi cho mình. Theo nhóm tác giả, đây cũng là yêu cầu chính đáng của bị cáo, phiên tòa cần phải hoãn để bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 352 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì không đề cập tới căn cứ này nên hội đồng xét xử phúc thẩm không có căn cứ để hoãn phiên tòa mà vẫn tiếp tục việc xét xử./.
Nhóm nghiên cứu khoa học[1]
[1]. Nhóm sinh viên nghiên cứu khoa học của Khoa Luật, Trường Đại học Mở Hà Nội gồm: Phạm Quỳnh Dương, Nguyễn Ngọc Dung, Nguyễn Vũ Ngọc Hà.
[2].https://lsvn.vn/quyen-bao-chua-cua-bi-can-bi-cao-mot-so-han-che-vuong-mac-va-giai-phap-hoan-thien1629327577.html, truy cập ngày 26/3/2024.
[3]. Vũ Lê Thành Nam, Quyền bào chữa của bị cáo trong tố tụng hình sự từ thực tiễn Thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội, tr. 61.
(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 1 (Số 402), tháng 4/2024)