1. Hợp đồng dân sự giả tạo - Khái niệm, đặc điểm và hậu quả pháp lý
Hiện nay, pháp luật Việt Nam chưa nêu rõ khái niệm thế nào là hợp đồng dân sự giả tạo. Tuy nhiên, căn cứ vào giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo tại Điều 124 Bộ luật Dân sự năm 2015, có thể hiểu: Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch dân sự khác thì giao dịch dân sự đó vô hiệu do giả tạo.
Như vậy, hợp đồng dân sự giả tạo là một loại hợp đồng dân sự được xác lập một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch dân sự khác. Hợp đồng giả tạo không có giá trị pháp lý và không phát sinh quyền, nghĩa vụ của các bên. Hợp đồng giả tạo sẽ chịu sự điều chỉnh pháp lý quy định tại Điều 124 Bộ luật Dân sự năm 2015 về giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo như sau:
(i) Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch dân sự khác thì giao dịch dân sự giả tạo vô hiệu, còn giao dịch dân sự bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 hoặc luật khác có liên quan.
(ii) Trường hợp xác lập giao dịch dân sự giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch dân sự đó vô hiệu.
Như vậy, hợp đồng dân sự giả tạo không phải là ý chí thực của hai bên, được thiết lập trên cơ sở một quan hệ dân sự khác trước đó và nhằm che giấu một giao dịch khác nên không có hiệu lực pháp luật, không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên do giả tạo. Hợp đồng dân sự giả tạo được xác lập về mặt hình thức nhưng không phải là ý chí thực của các bên; các bên không thực hiện các nghĩa vụ theo nội dung hợp đồng đã ký kết; việc ký kết hợp đồng này chỉ để bảo đảm thực hiện một nghĩa vụ nào đó của một hợp đồng khác, che giấu bởi một giao dịch khác thì đương nhiên hợp đồng này không phát sinh hiệu lực. Pháp luật không thừa nhận và bảo vệ loại hợp đồng này, hợp đồng này bị vô hiệu theo quy định của luật.
2. Thực trạng ký kết các hợp đồng dân sự giả tạo hiện nay ở Việt Nam
Hiện nay, tình trạng các bên lập hợp đồng dân sự giả tạo ngày càng nhiều, đặc biệt là trong các giao dịch mua bán, vay vốn, chuyển nhượng. Việc lập hợp đồng dân sự giả tạo phổ biến rơi vào hai trường hợp sau:
Trường hợp thứ nhất: Giao kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với giá trị thấp hơn so với giá trị thực tế khi mua bán. Theo quy định của pháp luật, thuế thu nhập cá nhân khi chuyển nhượng quyền sử dụng đất là 2% giá trị chuyển nhượng ghi trên hợp đồng chuyển nhượng. Tuy nhiên, nhằm mục đích giảm chi phí về thuế phải đóng, các bên đã thỏa thuận ký kết một hợp đồng khác với giá chuyển nhượng thấp hơn so với giá trị thực tế (hợp đồng giả tạo). Hợp đồng giả tạo này được sử dụng trong việc kê khai thuế và làm thủ tục sang tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất nhằm giảm, trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế, phí đối với Nhà nước. Việc ký kết loại hợp đồng này tiềm ẩn hậu quả pháp lý: (i) Luật Quản lý thuế quy định rõ việc người nộp thuế có nghĩa vụ khai thuế chính xác, trung thực, đầy đủ và nộp hồ sơ thuế đúng thời hạn, chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác, trung thực, đầy đủ của hồ sơ thuế… Điều đó có nghĩa là, khi người bán và người mua cố tình kê khai giá “ảo” trong hợp đồng chuyển nhượng để “né” thuế thì hành vi đó là vi phạm pháp luật. Hành vi này có thể bị tiến hành truy thu, xử phạt hành chính, thậm chí xử hình sự về tội trốn thuế theo quy định tại Điều 200 Bộ luật Hình sự năm 2015; (ii) Bên bán còn có thể gặp rủi ro lớn nếu gặp phải trường hợp bên mua không hoàn trả đúng số tiền thực tế đã thỏa thuận cho bên bán dẫn đến tình trạng kiện tụng, mất thời gian và công sức của các bên.
Trường hợp thứ hai: Vay tiền/tài sản dưới hình thức chuyển nhượng/mua bán tài sản. Trong quan hệ vay mượn tài sản, để bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ thì bên cho vay yêu cầu bên vay nợ phải sang tên bất động sản của mình cho bên cho vay, nếu đến thời điểm trả nợ mà bên đi vay không trả được nợ thì bên cho vay có quyền định đoạt bất động sản đó để bảo đảm nghĩa vụ trả nợ. Hoặc trong trường hợp hợp đồng vay tài sản, để bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ thì bên cho vay yêu cầu bên đi vay phải sang tên cổ phần doanh nghiệp của mình cho bên cho vay để bảo đảm nghĩa vụ trả nợ. Trong các giao dịch này thì hợp đồng vay tài sản là quan hệ dân sự có thật, có trước và được pháp luật bảo vệ, còn việc chuyển nhượng bất động sản hoặc sang tên cổ phần chỉ là giả tạo (các bên không có ý chí, không có mục đích mua bán, chuyển nhượng). Các hợp đồng mua bán, chuyển nhượng này là không có thật, chỉ nhằm che giấu cho giao dịch vay tài sản, bản chất các bên hướng đến chính là biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, không phải ý chí mua bán, chuyển nhượng thực giữa các bên.
Trong thực tế, các đối tượng cho vay thường nhắm đến những cá nhân có nhu cầu vay cấp thiết và thiếu hiểu biết pháp luật để ký kết các hợp đồng giả tạo. Mặc dù mục đích theo bên cho vay nói với bên vay là để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ nhưng thực chất là để chiếm đoạt tài sản khi bên vay không thanh toán được khoản vay hoặc vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng, thông qua sự thiếu hiểu biết của bên vay, bên cho vay sẽ đề nghị ký hợp đồng chuyển nhượng quyền tài sản để bảo đảm nghĩa vụ trả khoản vay. Những hợp đồng này đa số là hợp đồng chuyển nhượng giả tạo nhằm che đậy giao dịch vay mượn tài sản. Trong đó, thông thường sẽ có điều kiện nếu người vay tiền vi phạm thỏa thuận về thời gian trả lãi, trả nợ gốc thì mặc định tài sản này được chuyển dịch sang tên người cho vay. Ban đầu người đi vay không có ý định này hoặc không đọc kỹ và không am hiểu pháp luật nên cũng không thể lường trước hậu quả xảy ra nên vẫn thực hiện việc ký hợp đồng giả tạo.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến ký hết hợp đồng giả tạo như: Do người vay tiền muốn nhanh chóng nhận được tiền để giải quyết kịp thời khó khăn, cấp bách nên đồng ý ký vào hợp đồng giả tạo; thiếu hiểu biết pháp luật, tin tưởng vào đối phương không lấy tài sản của mình, mà chỉ bảo đảm tiền vay, không đọc kỹ hợp đồng, có ý nghĩ tài sản mình đang quản lý là còn của mình; người vay tiền ngại đến ngân hàng vay tiền vì thủ tục ngân hàng cho vay rườm rà; người cho vay nặng lãi, tổ chức tín dụng đen muốn chiếm đoạt tài sản của người đi vay…
3. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hợp đồng dân sự giả tạo
So với Bộ luật Dân sự năm 2005, Điều 131 Bộ luật Dân sự năm 2015 đã có những quy định rõ ràng, khả thi hơn, phù hợp với thực tế hơn. Tuy nhiên, sau gần 10 năm thực hiện thì những quy định này cũng gặp phải những vướng mắc trong quá trình áp dụng vào các trường hợp xảy ra trên thực tế, do đó, chưa thực sự bảo đảm được quyền, lợi ích hợp pháp của các bên tham gia, cụ thể như sau:
Một là, quy định các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận chưa thực sự bảo đảm được lợi ích của các chủ thể, đặc biệt là trong các hợp đồng mua bán quyền sử dụng đất. Ví dụ, trong trường hợp bên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã xây dựng nhà ở, công trình trên mảnh đất đó, sau đó, hợp đồng chuyển nhượng bị tuyên bố vô hiệu, thì Tòa án buộc bên nhận chuyển nhượng phải tháo dỡ công trình trên đất để trả lại hiện trạng đất ban đầu cho bên chuyển nhượng. Trường hợp này dù làm đúng quy định của luật nhưng không phát huy được hiệu quả về mặt kinh tế, thậm chí gây tổn thất, thiệt hại lớn cho các bên.
Hai là, trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả cũng gặp khó khăn trong quá trình xác định giá tiền. Giá tiền của tài sản được xác định tại thời điểm xác lập hợp đồng hay xác định tại thời điểm phát sinh tranh chấp? Đặc biệt là việc xác định giá bất động sản vì giá chuyển nhượng bất động sản theo giá thị trường và theo khung giá Nhà nước có sự khác biệt rất lớn, phụ thuộc nhiều vào sự thỏa thuận của bên mua và bên bán. Hoặc trường hợp tài sản là vật đặc định, khó có thể tìm được vật tương ứng để định giá.
Ba là, chưa có quy định cụ thể về mức độ lỗi, trách nhiệm của các bên. Trong trường hợp cả người gây ra thiệt hại và người bị hại đều có lỗi, thì trách nhiệm của mỗi bên sẽ được giải quyết như thế nào? Việc xác định trách nhiệm hỗn hợp gặp nhiều khó khăn do khi thiệt hại phát sinh các bên đều có lỗi.
Do vậy, để hạn chế tình trạng ký kết hợp đồng giả tạo, cần thực hiện một số giải pháp, đề xuất sau đây[1]:
- Về quy định hợp đồng giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ đối với người thứ ba, có thể thấy, việc giao kết hợp đồng nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba đã đủ coi là vô hiệu mà không cần xem xét tới yếu tố giả tạo. Do đó, để thống nhất trong giải quyết tranh chấp thực tế phát sinh liên quan đến hợp đồng giao kết nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba và hợp đồng giả tạo nên sửa đổi theo hướng tách biệt quy định giữa hai giao dịch này, cụ thể: “Trong trường hợp xác lập giao dịch nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch đó vô hiệu”.
- Về quy định hậu quả pháp lý của giao dịch vô hiệu: Pháp luật cần quy định cụ thể về xác định lỗi gây thiệt hại phải bồi thường để tạo sự thống nhất trong khoa học pháp lý cũng như thực tiễn áp dụng. Ngoài ra đối với quy định không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả, cũng cần cân nhắc sửa đổi, bổ sung quy định một cách cụ thể, rõ ràng hơn việc xác định giá tiền ngang bằng với vật để thanh toán nhằm bảo đảm quyền, lợi ích của các bên.
- Về thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu do giả tạo: Để tránh những mâu thuẫn trong quá trình áp dụng luật, cần xác định thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo bằng con số cụ thể. Thời hiệu này có thể tương đồng với quy định về thời hiệu xác lập quyền sở hữu (tại Điều 236 Bộ luật Dân sự năm 2015). Theo đó, đối với hợp đồng dân sự giả tạo có đối tượng là bất động sản thì thời hiệu yêu cầu tuyên bố hợp đồng dân sự vô hiệu là 30 năm, còn đối với các hợp đồng dân sự giả tạo có đối tượng là động sản thì thời hiệu yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu là 10 năm kể từ thời điểm xác lập hợp đồng.
Ngoài ra, để tránh rơi vào tình trạng hợp đồng dân sự giả tạo, người dân cần tìm hiểu và nhờ người hiểu biết về pháp luật tìm hiểu kỹ các nội dung pháp lý trước khi ký kết hợp đồng. Khi thiết lập một hợp đồng dân sự giả tạo, không phải lúc nào bản thân chủ thể cũng nhận thức được hậu quả xảy ra. Có những trường hợp vì không hiểu rõ được tính chất của vấn đề bị các đối tượng khác lừa gạt. Vì vậy, Nhà nước (chính quyền các địa phương) cần phải tăng cường các biện pháp tuyên truyền rộng rãi các quy định pháp luật về vấn đề này đến mọi người dân.
Thực tiễn cho thấy, việc xác định hợp đồng dân sự giả tạo là rất khó khăn, đặc biệt trong hoạt động cho vay tài sản. Thông thường, bên vay không có giấy tờ chứng minh tại Tòa án khiến cho vụ việc trở nên phức tạp, khó khăn. Có những vụ việc, thậm chí người vay đã trả tiền lãi và một phần nợ gốc nhưng không có giấy biên nhận trả nợ để làm căn cứ chứng minh đó là giao dịch vay tài sản mà không phải là mua bán tài sản gây khó khăn cho Tòa án các cấp trong giải quyết các vụ án này. Để thống nhất áp dụng pháp luật, tránh việc hủy, sửa bản án nhiều lần, Tòa án nhân dân tối cao cần sớm có hướng dẫn, giải thích pháp luật và lựa chọn Án lệ khi giải quyết các vụ việc về hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo quy định tại Điều 121 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Trong thời gian tới, cần cân nhắc bổ sung các quy định trong việc xác minh tính khách quan khi thực hiện công chứng, để việc chứng nhận tính xác thực của giao dịch không chỉ là chứng nhận các bên có thỏa thuận, xác lập giao dịch với nội dung thể hiện trên văn bản mà đối tượng và đặc điểm của tài sản các bên giao dịch cũng cần phải được kiểm tra, xác minh cụ thể trên thực tế. Bên cạnh đó, cần nâng cao nghiệp vụ của công chứng viên và trách nhiệm của các Văn phòng công chứng. Khi thực hiện hoạt động công chứng, công chứng viên phải biết rõ những gì các bên hướng tới, mong muốn đạt được khi tham gia giao dịch đúng như đối tượng đặc trưng của các loại hợp đồng, giao dịch mà các bên giao kết[2].
Tóm lại, các quy định về giao dịch dân sự giả tạo nói chung và hợp đồng dân sự được xác lập do giả tạo nói riêng không có nhiều thay đổi qua các thời kỳ. Tuy nhiên, việc vận dụng để thực thi quy định trên thực tiễn không hề đơn giản. Vì vậy, cần có những sửa đổi, bổ sung quy định của văn bản pháp luật cho phù hợp, đồng thời có những hướng dẫn nghiệp vụ của cơ quan xét xử để tránh sự thiếu thống nhất trong các bản án dân sự khi xét xử cùng một nội dung liên quan./.
ThS. Chung Lê Hồng Ân
Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh
[1]. Hoàn thiện quy định của Bộ luật dân sự về hợp đồng vô hiệu do giả tạo, https://tapchicongthuong.vn/hoan-thien-quy-dinh-cua-bo-luat-dan-su-ve-hop-dong-vo-hieu-do-gia-tao-97876.htm.
[2]. Những rủi ro, hệ lụy khi ký kết hợp đồng giả cách và một số giải pháp ngăn chặn, https://phaply.net.vn/nhung-rui-ro-he-luy-khi-ky-ket-hop-dong-gia-cach-va-mot-so-giai-phap-ngan-chan-a256669.html.
(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 1 (Số 406), tháng 6/2024)