Hiệp định Giơnevơ và sự kiện tập kết ra Bắc mang tầm chiến lược
Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp định Giơnevơ (ngày 20/7/1954) về đình chỉ chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương. Theo Hiệp định Giơnevơ, Việt Nam tạm thời bị chia cắt thành hai miền, lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới tạm thời. Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội; miền Nam tạm thời do quân đội Liên hiệp Pháp và ngụy quyền quản lý, hai năm sau sẽ Hiệp thương Tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Do đó, lực lượng kháng chiến của ta phải tập kết ra Bắc. Nhân dân cả nước tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ để giành độc lập dân tộc và thống nhất đất nước.
Theo Hiệp định Giơnevơ, việc tập kết chuyển quân và chuyển giao khu vực được thực hiện trong vòng 300 ngày, kể từ ngày 21/7/1954. Ở miền Bắc, khu vực Hà Nội nằm trong vùng tập kết 80 ngày, Hải Dương 100 ngày, Hải Phòng, Kiến An, Hồng Quảng 300 ngày của quân đội Pháp. Ở miền Nam, thời gian Việt Nam bàn giao cho phía Pháp quy định khác nhau. Tại Trung Bộ, các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định là 300 ngày, các tỉnh khác bàn giao xong trước ngày 31/8/1954. Tại Nam Bộ, khu vực Hàm Tân (Bình Thuận), Xuyên Mộc (Bà Rịa - Vũng Tàu) vùng tập kết 80 ngày; vùng Cao Lãnh - Đồng Tháp Mười là 100 ngày, riêng khu tập kết Cà Mau là 200 ngày.
Ngày 27/7/1954, trong Chỉ thị “Tuyên truyền về những Hiệp định của Hội nghị Giơnevơ. Tình hình và nhiệm vụ mới”, Ban Bí thư Trung ương Đảng nêu rõ: “Việc điều chỉnh thành hai vùng đóng quân dứt khoát ở Việt Nam là một việc làm cần thiết để thực hiện ngừng bắn và đình chiến và cũng là việc làm tạm thời trước khi quân Pháp rút khỏi Việt Nam. Đó không phải là “chia cắt đất đai” không phải là “phân trị”… “Cần nêu khẩu hiệu “Điều chỉnh để đình chiến, tuyển cử để thống nhất”.
Để hoàn thành tốt nhiệm vụ đón tiếp cán bộ, chiến sỹ và đồng bào miền Nam tập kết, Đảng đã chỉ đạo chặt chẽ từ Trung ương đến các địa phương, huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị, từ các cấp ủy, chính quyền đến các tổ chức đoàn thể nhân dân. Ngày 31/8/1954, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị “Về việc đón tiếp bộ đội, thương binh, một số cán bộ và đồng bào miền Nam ra Bắc”, Ban Bí thư quyết định thành lập Ban phụ trách chung về công tác đón tiếp đồng bào, chiến sĩ miền Nam. Việc tổ chức đón và tiếp nhận người tập kết do nhiều cơ quan khác nhau đảm nhận. Đối với các địa phương được giao nhận đồng bào tập kết, Ban Bí thư yêu cầu phải lập ngay Ban phụ trách. Ban phụ trách các cấp từ khu đến xã sẽ gồm đại diện cấp ủy đảng, chính quyền, bộ đội, cơ quan thương binh; ở xã thì có đại diện chi ủy, ủy ban, tổ chức nông hội, Mặt trận Liên Việt, lực lượng dân quân. Ban phụ trách chuẩn bị việc tiếp đón và lập kế hoạch phân phối người về các huyện, các xã, là những nơi phải đủ các điều kiện như nhân dân có giác ngộ chính trị cao, có chỗ ở tạm được, không hẻo lánh và khí hậu xấu. Ở miền Bắc, các tỉnh được giao nhiệm vụ đón tiếp đồng bào và chiến sỹ miền Nam tập kết gồm: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh và Quảng Bình; trong đó, Sầm Sơn (Thanh Hóa) và Cửa Hội (Nghệ An) là những địa điểm đón tiếp cán bộ, chiến sỹ và đồng bào miền Nam tập kết theo đường biển; Hà Tĩnh và Quảng Bình đón tiếp qua đường bộ. Mặc dù, đời sống của nhân dân các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh còn rất nhiều khó khăn do phải tập trung nhân lực, vật lực cho chiến trường Điện Biên Phủ, song theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và thực hiện Chỉ thị của Trung ương Đảng, nhân dân các địa phương đã dốc lòng, tạo mọi điều kiện về vật chất và tinh thần để hoàn thành nhiệm vụ vẻ vang này.
Ở miền Nam, để chuẩn bị cho công việc chuyển quân, tập kết, tháng 7/1954, Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị về việc tập kết quân đội và chính quyền, quán triệt đến các cấp ủy Đảng, đảng viên về mục đích, ý nghĩa, nhiệm vụ của người tập kết ra miền Bắc và người ở lại tiếp tục hoạt động ở miền Nam. Tiếp đó, ngày 23/10/1954, Trung ương Cục ra Nghị quyết thành lập Đảng ủy chuyển quân ở các khu, các tỉnh và khu tập kết Cà Mau. Đảng ủy chuyển quân cấp tỉnh đặt dưới sự chỉ đạo của Đảng ủy chuyển quân cấp khu; Đảng ủy chuyển quân Khu Cà Mau đặt dưới sự chỉ đạo của Trung ương Cục. Các địa phương, cơ quan kháng chiến và lực lượng vũ trang các cấp tiến hành lập danh sách, phân loại, cử người tiếp tục ở lại và người ra đi tập kết. Đối với đồng bào miền Nam, việc chuyển quân tập kết từ miền Nam ra miền Bắc thực sự là cuộc đấu tranh tư tưởng, tuy âm thầm nhưng đầy quyết liệt của quân và dân miền Nam, nhất là ở những vùng tự do, khu du kích, căn cứ du kích.
Có thể khẳng định, việc đưa cán bộ, chiến sỹ, đồng bào miền Nam tập kết ra Bắc là một quyết định mang tầm chiến lược, có ý nghĩa lịch sử hết sức to lớn. Đây không chỉ là đợt chuyển quân thông thường mà thể hiện những chủ trương, chính sách lớn, quan trọng về quản lý, đãi ngộ, sử dụng và bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ, chiến sĩ để vừa góp phần cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, vừa chuẩn bị lực lượng cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
200 ngày tập kết, chuyển quân ra Bắc tại Cà Mau với những ý nghĩa lịch sử quan trọng và bài học kinh nghiệm quý giá
Cà Mau là khu tập kết 200 ngày của lực lượng kháng chiến Tây Nam Bộ gồm cả vùng giải phóng cũ và vùng mới tiếp quản như Thị trấn Cà Mau, Tắc Vân, Giá Rai, Hòa Bình và một số chợ khác. Có thể nói, đây là một trong các điểm tập kết, chuyển quân quan trọng của nhân dân miền Nam, mang nhiều ý nghĩa lịch sử quan trọng đối với nước Việt Nam nói chung và với tỉnh Cà Mau nói riêng như:
Một là, chỉ trong một thời gian ngắn, 200 ngày tập kết, dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, Chính quyền cách mạng ra sức thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng, nhân dân Cà Mau được sống trong những ngày hòa bình, độc lập, tự do, hạnh phúc. Thành tựu xây đựng cuộc sống mới chưa nhiều nhưng ý nghĩa chính trị rất to lớn. Nhân dân trong tỉnh và nhân dân các nơi về đây đã khẳng định con đường ấm no, hạnh phúc mà Đảng và Bác Hồ chọn là đúng đắn, tạo cơ sở nền tảng vững chắc để tỉnh Cà Mau bước vào giai đoạn cách mạng mới, tiến tới giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước.
Hai là, 200 ngày thực hiện tập kết, chuyển quân tại Cà Mau, diễn ra không lâu, nhưng các hoạt động của chính quyền cách mạng rất có hiệu quả, đã làm đổi mới các khu vực mà chúng ta mới tiếp quản trên các mặt về kinh tế, văn hóa, xã hội. Đặc biệt, nghĩa tình “quân với dân như cá với nước”, đã làm tăng uy tín và ảnh hưởng của cách mạng ngày càng sâu rộng, có ý nghĩa chính trị vô cùng to lớn, vừa làm cơ sở thực hiện nhiệm vụ chính trị, vừa để đập tan những luận điệu tuyên truyền xuyên tạc của Mỹ, Ngụy về cách mạng miền Nam Việt Nam.
Ba là, trong thời gian 200 ngày tập kết, chuyển quân tại Cà Mau, chúng ta đã có điều kiện xây dựng, củng cố chính quyền cách mạng về mọi mặt, sẵn sàng ứng phó với mọi tình huống. Đó cũng là nền tảng để Đảng ta chỉ đạo, hình thành nhiều căn cứ kháng chiến, xây dựng hệ thống căn cứ địa liên hoàn, tạo thế đứng vững chắc cho lực lượng kháng chiến đi đến thắng lợi về sau. Việc lựa chọn đối tượng đi tập kết ra Bắc và phân công người ở lại để tiếp tục chỉ đạo cách mạng miền Nam cho thấy tầm nhìn chiến lược của Đảng và Bác Hồ về cách mạng Việt Nam, về quân sự, xây dựng lực lượng và đào tạo thế hệ kế thừa nhằm phục vụ cách mạng lâu dài, để đi đến cuộc cách mạng giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Bốn là, cán bộ, học sinh con em đồng bào miền Nam ra miền Bắc, được đồng bào miền Bắc tiếp đón, đối đãi rất tốt, tạo điều kiện thuận lợi đào tạo cán bộ cho miền Nam có trình độ chuyên môn cao, sớm quay về phục vụ cách mạng. Thể hiện được tinh thần đoàn kết toàn dân tộc, sự tương trợ của đồng bào miền Bắc đối với đồng bào miền Nam ruột thịt, để thực hiện quyết tâm của Đảng, Bác Hồ hướng đến ngày “Bắc - Nam sum họp một nhà”.
Bên cạnh đó, sự kiện này cũng để lại những bài học kinh nghiệm quý giá:
Thứ nhất, Đảng bộ, dân và quân tỉnh Cà Mau phải luôn phát huy tinh thần cách mạng của sự kiện 70 năm tập kết, chuyển quân ra Bắc, trên cơ sở quán triệt thật tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Đồng thời, phát huy tinh thần tự lực, tự cường, sáng tạo, biết dựa vào dân, “lấy dân làm gốc” cội nguồn của cách mạng, chăm lo cho đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân, thường xuyên tuyên truyền vận động Nhân dân chung sức, chung lòng xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc, thì cách mạng nhất định sẽ thắng lợi, tạo nguồn vững chắc cho cách mạng Việt Nam nói chung và tỉnh Cà Mau nói riêng, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm, luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch.
Thứ hai, xây dựng, củng cố khối đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện các chính sách nhằm nâng cao đời sống của Nhân dân, đặc biệt là Nhân dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng, thực hiện tốt công tác an sinh xã hội. Qua đó, củng cố vững chắc niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, với chính quyền cách mạng.
Thứ ba, phát huy tinh thần tự giác cách mạng, chấp hành tuyệt đối sự phân công, đều động của tổ chức với tinh thần “đi hay ở đều là nhiệm vụ”, từ đó coi việc phân công điều động là đợt bố trí lực lượng để thực hiện nhiệm vụ cách mạng lâu dài trong thời gian tới.
Thứ tư, thực hiện tuyệt đối bí mật quốc gia, bí mật quân sự, không để lọt, lộ thông tin, tài liệu mật ra bên ngoài, nhằm bảo đảm an ninh quốc gia trong thời kỳ mới.
Thanh Hóa - Thắm đượm nghĩa tình với đồng bào miền Nam ruột thịt
Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh, tỉnh Thanh Hóa vinh dự được Trung ương tin tưởng, giao nhiệm vụ cùng với một số tỉnh đón tiếp đồng bào, cán bộ, chiến sĩ, học sinh miền Nam tập kết ra Bắc. Địa điểm tại Thanh Hóa được lựa chọn là Cửa Hới (nay thuộc phường Quảng Tiến, thành phố Sầm Sơn). Mặc dù, còn rất nhiều khó khăn, nhưng với tình cảm ruột thịt Bắc Nam một nhà, niềm vui chiến thắng, niềm vui miền Bắc hoàn toàn được giải phóng, Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân các dân tộc tỉnh Thanh Hóa hăng hái thi đua, quyết tâm hoàn thành tốt nhiệm vụ của Trung ương Đảng và Chính phủ giao.
Tỉnh ủy Thanh Hóa đã chỉ đạo thành lập Ban đón tiếp của tỉnh và bộ máy điều hành với hàng trăm cán bộ giúp việc. Đồng thời, để nhanh chóng triển khai các nhiệm vụ đón tiếp đồng bào, cán bộ, chiến sĩ, học sinh miền Nam ra tập kết một cách an toàn, chu đáo nhất, các địa phương trong tỉnh tập trung cao độ, chuẩn bị tổ chức đón tiếp chu đáo đồng bào miền Nam. Hàng nghìn công nhân, Nhân dân trong tỉnh tự nguyện tham gia xây dựng các công trình đón tiếp đồng bào miền Nam; hàng vạn cây nứa, cây luồng, cây gỗ, hàng vạn lá kè, hàng trăm tấn củi… từ miền núi được đưa xuống để làm nhà đón tiếp, nhà ở, nhà ăn, giường nằm… phục vụ kịp thời nơi ăn, chốn nghỉ cho đồng bào, cán bộ, chiến sĩ và học sinh miền Nam. Đặc biệt, các cấp, các ngành, các địa phương và nhân dân trong tỉnh hăng hái chuẩn bị hàng tấn lương thực, thực phẩm, cung cấp hàng vạn bộ quần áo, chăn màn và các điều kiện tốt nhất để đồng bào, cán bộ, chiến sĩ và học sinh miền Nam nhanh chóng ổn định cuộc sống trên vùng đất mới.
Để bảo đảm sức khỏe cho đồng bào, cán bộ, chiến sĩ, học sinh miền Nam ra tập kết ngay từ những ngày đầu, Trung ương đã giao cho Thanh Hóa xây dựng một bệnh viện tranh tre nứa lá quy mô 800 giường bệnh do Bộ Y tế quản lý, có sự hỗ trợ kỹ thuật của Bệnh viện tỉnh. Thực hiện sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, Ty Y tế Thanh Hóa đã thành lập ở Sầm Sơn một trạm cấp cứu, hai trạm khám sức khỏe ở hai xã Hoằng Lộc, Hoằng Quang (huyện Hoằng Hóa); bệnh xá ở Thiệu Đô (huyện Thiệu Hóa) khám chữa bệnh cho các đồng chí, đồng bào miền Nam bị thực dân cầm tù, tra tấn ở nhà lao Chí Hòa và chữa bệnh cho các cháu thiếu nhi ra Bắc học tập.
Trong 9 tháng (từ tháng 9/1954 đến tháng 5/1955), toàn tỉnh đã đón tiếp 07 đợt, với 45 chuyến tàu, trong đó có 47.346 cán bộ, bộ đội; 1.775 thương binh; 5.922 học sinh và 1.443 gia đình cán bộ. Sự tiếp đón nồng hậu, chu đáo và tình cảm đằm thắm, ruột thịt của đồng bào Thanh Hóa đã làm ấm lòng những người con miền Nam trên đất Bắc, tiếp thêm nghị lực để phấn đấu học tập, lao động và cống hiến cho đất nước.
Sống trong vòng tay yêu thương trên đất Bắc, đồng bào, cán bộ, chiến sĩ và học sinh miền Nam đã coi Thanh Hóa, coi miền Bắc là quê hương thứ hai của mình, không ngừng nỗ lực, phấn đấu học tập, ra sức lao động, sản xuất, đóng góp công sức vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Nhiều đồng bào miền Nam sau khi dưỡng bệnh, học tập, rèn luyện đã nhập ngũ, lên đường kề vai sát cánh cùng đồng chí, đồng đội, trở lại quê hương, xông pha khắp các chiến trường, chiến đấu, hi sinh để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Nhiều thế hệ con em học sinh của đồng bào miền Nam được Đảng, Nhà nước đào tạo, không ngừng trưởng thành; trở thành những cán bộ lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước và các địa phương, các tướng lĩnh quân đội, công an, các nhà giáo, bác sĩ, nhà khoa học, các doanh nhân thành đạt, các văn nghệ sĩ tên tuổi,… đã và đang mang hết công sức, cống hiến cho công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Những kết quả đó đã khẳng định tầm nhìn chiến lược, sáng suốt của trung ương, của Bác Hồ và tình cảm sâu nặng của nhân dân Thanh Hóa nói riêng và miền Bắc nói chung đối với đồng bào miền Nam ruột thịt.
Trong thời kỳ đổi mới, hội nhập, phát triển, ý nghĩa và bài học lịch sử của sự kiện tập kết ra Bắc tiếp tục là động lực quan trọng, tiếp thêm sức mạnh cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta tiếp tục nghiên cứu, học tập để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vững bước tiến vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Kỷ niệm 70 năm sự kiện tập kết ra Bắc là dịp để chúng ta nâng cao nhận thức về truyền thống lịch sử, văn hóa, cách mạng của dân tộc; giáo dục tư tưởng chính trị, lòng yêu nước, niềm tự hào, tự tôn dân tộc cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp Nhân dân; bồi đắp niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, khơi dậy tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc, ý chí tự lực, tự cường, xây dựng và phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Uyên Nhi (tổng hợp)
Ảnh: Internet
Tài liệu tham khảo:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tập 15.
2. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử biên niên Xứ ủy Nam Bộ và Trung ương Cục miền Nam (1954-1975), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 51.
3. Công văn số 9694-CV/BTGTW của Ban Tuyên giáo Trung ương về việc truyên truyền kỷ niệm 70 năm sự kiện Tập kết ra Bắc (1954 - 2024).
4. Đề cương tuyên truyền kỷ niệm 70 năm sự kiện tập kết, chuyển quân ra Bắc tại Cà Mau (1954 - 2024).
5. PGS.TS. Nguyễn Văn Nhật, Phát huy sức mạnh đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế thực hiện thắng lợi việc chuyển quân, tập kết theo Hiệp định Giơnevơ năm 1954, https://tapchimattran.vn/dai-doan-ket/phat-huy-suc-manh-doan-ket-dan-toc-doan-ket-quoc-te-thuc-hien-thang-loi-viec-chuyen-quan-tap-ket-theo-hiep-dinh-gionevo-nam-1954-57802.html, truy cập ngày 18/10/2024.