Cảnh sát cơ động là lực lượng vũ trang chiến đấu tập trung của Công an nhân dân, là lực lượng nòng cốt thực hiện biện pháp vũ trang bảo vệ an ninh, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, trong đó có nhiệm vụ rất quan trọng là cơ động chiến đấu, xử lý các vụ gây rối an ninh, bạo loạn, phòng chống khủng bố, giải cứu con tin và tấn công trấn áp các loại hình tội phạm nguy hiểm có sử dụng vũ khí, hung khí. Cảnh sát cơ động được trang bị, sử dụng vũ khí, công cụ hỗ trợ, trang thiết bị đặc chủng. Xuất phát từ đòi hỏi thực tiễn cần phải có một văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao quy định đầy đủ, toàn diện về tổ chức cũng như quy định nhiệm vụ, quyền hạn và hoạt động của cảnh sát cơ động, từ đó Pháp lệnh Cảnh sát cơ động được Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XIII thông qua tại phiên họp thứ 23 ngày 23/12/2013.
Pháp lệnh Cảnh sát cơ động gồm 5 chương, 24 điều. Theo đó, ngoài chế độ chính sách chung đối với Công an nhân dân, Cảnh sát cơ động còn được hưởng chính sách ưu đãi đặc thù theo tính chất, nhiệm vụ, địa bàn hoạt động và được bố trí nhà ở công vụ nếu sĩ quan Cảnh sát cơ động công tác ổn định lâu dài ở địa bàn đóng quân. Pháp lệnh cũng quy định, Bộ Công an chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện thống nhất quản lý Nhà nước về Cảnh sát cơ động và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về Cảnh sát cơ động. Pháp lệnh có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2014.
Cùng ngày, Văn phòng Chủ tịch nước cũng công bố Lệnh của Chủ tịch nước về việc ban hành Pháp lệnh Trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân.
Pháp lệnh Trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân gồm 5 chương, 42 điều. Pháp lệnh đã thể chế hóa các quan điểm, chủ trưởng, chính sách của Đảng về cải cách hệ thống hóa pháp luật, cải cách tư pháp và cải cách hành chính đã được xác định trong các nghị quyết, văn kiện của Đảng; bảo đảm trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính chặt chẽ, nhanh gọn, khả thi nhằm tăng cường tính công khai, minh bạch, công bằng dân chủ trong qua trình xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính bảo đảm quyền công dân, quyền con người đặc biệt là quyền của người chưa thành niên trong quá trình xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp hành chính.
Theo Pháp lệnh Trình tự thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân thì thời hạn xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính là 15 ngày, kể từ ngày Tòa án thụ lý hồ sơ đề nghị cơ quan có thẩm quyền; đối với vụ việc phức tạp, thời hạn này có thể kéo dài nhưng không quá 30 ngày.
Về thủ tục, Pháp lệnh cũng quy định việc xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án được thực hiện thông qua phiên họp do một thẩm phán được Chánh án Tòa án phân công thực hiện. Phiên họp có sự tham gia của cơ quan đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính, đại diện Viện kiểm sát cùng cấp, người bị đề nghị hoặc người đại diện hợp pháp của họ, cha mẹ hoặc người giám hộ của người bị đề nghị là người chưa thành niên và những người khác theo yêu cầu của Tòa án. Trên cơ sở xem xét hồ sơ và các ý kiến của những người tham gia phiên họp, thẩm phán có thể ra một trong các quyết định áp dụng hoặc không áp dụng biện pháp xử lý hành chính; đình chỉ, tạm đình chỉ việc xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính. Pháp lệnh có hiệu lực thi hành kể từ ngày 20/1/2014.
PV