Việt Nam đang trong giai đoạn hội nhập sâu rộng về mọi mặt và quá trình hội nhập chắc chắn sẽ có những tác động lớn đến thị trường tài chính Việt Nam nói chung và thị trường bảo hiểm nói riêng. Cho đến thời điểm hiện tại, những bất cập của việc phát triển thị trường bảo hiểm ở nước ta đã được nhận diện dưới nhiều góc độ và những điều kiện tiên quyết đã được các chuyên gia xác định như: (i) Cần hoàn thiện môi trường pháp lý cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm; (ii) Cần nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam; (iii) Chuẩn bị nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ cho sự phát triển của ngành bảo hiểm[1]. Trong bài viết này, tác giả sẽ tập trung phân tích những bất cập của các quy định pháp luật hiện hành điều chỉnh hoạt động kinh doanh bảo hiểm, từ đó, đề xuất những giải pháp cho việc hoàn thiện pháp luật về hoạt động kinh doanh bảo hiểm trên cơ sở những điều kiện kinh tế, xã hội của Việt Nam trong giai đoạn tích cực hội nhập và nghiêm túc thực hiện các cam kết song phương, đa phương có liên quan đến hoạt động kinh doanh bảo hiểm của Việt Nam.
1. Về một số quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh bảo hiểm
Luật Kinh doanh bảo hiểm được ban hành vào năm 2000 và được sửa đổi, bổ sung một số điều vào năm 2010. Trong quá trình thi hành và áp dụng Luật này, cũng đã có khá nhiều văn bản hướng dẫn. Hiện nay, hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh bảo hiểm bao gồm: Luật Kinh doanh bảo hiểm, Nghị định số 73/2016/NĐ-CP ngày 01/07/2016 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Kinh doanh bảo hiểm và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm và Thông tư số 50/2017/TT-BTC ngày 15/5/2017 của Bộ Tài chính hướng dẫn Nghị định số 73/2016/NĐ-CP... Sự tinh gọn trong việc duy trì số lượng văn bản hướng dẫn là một sự nỗ lực rất lớn của cơ quan có thẩm quyền nhằm hạn chế tối đa sự chồng chéo và khó vận dụng trong quá trình thực hiện pháp luật. Tuy nhiên, khi quy định về các tổ chức kinh doanh bảo hiểm, pháp luật hiện hành cho phép các tổ chức kinh doanh bảo hiểm dưới các loại hình: Công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần; hợp tác xã bảo hiểm; tổ chức bảo hiểm tương hỗ[2] và vẫn có những bất cập sau đây:
(i) Đối với hợp tác xã bảo hiểm: Dù Luật Kinh doanh bảo hiểm đã có hiệu lực khá lâu, nhưng văn bản hướng dẫn về điều kiện thành lập và hoạt động của hợp tác xã bảo hiểm vẫn chưa được ban hành. Thiết nghĩ, nếu cho phép hợp tác xã hoạt động kinh doanh bảo hiểm, thì pháp luật vẫn phải có những điều kiện riêng như thủ tục thành lập, nội dung hoạt động, điều kiện về vốn, thành viên... Nghĩa là, phải có quy định riêng cho hợp tác xã kinh doanh bảo hiểm, chứ không phải đơn thuần những hợp tác xã theo Luật Hợp tác xã hiện hành. Đến nay, vẫn chưa có một hợp tác xã bảo hiểm nào ra đời ở Việt Nam, nghĩa là quy định vẫn còn nằm trên giấy. Phải chăng do chưa có văn bản hướng dẫn hay do không ai có nhu cầu kinh doanh bảo hiểm dưới mô hình hợp tác xã và trong tương lai pháp luật sẽ giải quyết thế nào đối với chủ thể này.
(ii) Đối với tổ chức bảo hiểm tương hỗ: Tuy đã có Nghị định hướng dẫn riêng cho đối tượng này, nhưng đến nay đã 13 năm kể từ ngày Nghị định hướng dẫn có hiệu lực, vẫn chưa có một tổ chức bảo hiểm tương hỗ nào được thành lập và hoạt động theo đúng tinh thần của Nghị định. Điều này cho thấy, nhiều quy định trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm chỉ “nằm trên giấy”.
2. Về trách nhiệm cung cấp thông tin trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm và hậu quả pháp lý liên quan đến thông tin trong hợp đồng bảo hiểm
Tại khoản 4 Điều 12 Luật Kinh doanh bảo hiểm chỉ quy định việc áp dụng Bộ luật Dân sự và pháp luật có liên quan, nhưng lại không quy định nếu có sự mâu thuẫn về các quy định liên quan đến hợp đồng thì giải quyết theo văn bản nào. Điều này dẫn đến sự tùy tiện trong việc lựa chọn hướng xử lý của bên cung ứng dịch vụ bảo hiểm và khó khăn trong việc giải quyết tranh chấp trong hợp đồng kinh doanh bảo hiểm, đặc biệt liên quan đến hướng xử lý khi có vi phạm liên quan đến việc cung cấp thông tin.
Luật Kinh doanh bảo hiểm quy định nhiều hình thức cung cấp thông tin không trung thực và có nhiều hướng xử lý khác biệt, cụ thể:
Thứ nhất, Điều 19 Luật này quy định: Doanh nghiệp bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm và thu phí bảo hiểm đến thời điểm đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm khi bên mua bảo hiểm có một trong những hành vi cố ý cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm để được trả tiền bảo hiểm hoặc được bồi thường… Hướng xử lý như sau: “Trong trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm cố ý cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm thì bên mua bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm; doanh nghiệp bảo hiểm phải bồi thường thiệt hại phát sinh cho bên mua bảo hiểm do việc cung cấp thông tin sai sự thật”[3].
Thứ hai, khoản 1 Điều 34 Luật này quy định: “Bên mua bảo hiểm phải có nghĩa vụ thông báo chính xác tuổi của người được bảo hiểm vào thời điểm giao kết hợp đồng bảo hiểm để làm cơ sở tính phí bảo hiểm”. Hướng xử lý: (i) Hủy bỏ hợp đồng bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm hoàn trả số phí bảo hiểm trong trường hợp tuổi đúng của người được bảo hiểm không thuộc nhóm tuổi được bảo hiểm; (ii) Vẫn tiếp tục hợp đồng nhưng điều chỉnh tuổi và phí cho phù hợp nếu tuổi đúng vẫn thuộc nhóm tuổi được bảo hiểm. Pháp luật không quy định rõ về lỗi cố ý hay vô ý thông báo tuổi sai là một sự thiếu sót, nhưng nếu cố ý thông báo tuổi sai, thì đây cũng có thể xem là lừa dối khi giao kết hợp đồng bảo hiểm.
Thứ ba, Điều 22 Luật Kinh doanh bảo hiểm quy định về các trường hợp hợp đồng bảo hiểm bị vô hiệu, đó là: “Bên mua bảo hiểm hoặc doanh nghiệp bảo hiểm có hành vi lừa dối khi giao kết hợp đồng bảo hiểm”, như vậy, cùng một hành vi vi phạm, Luật Kinh doanh bảo hiểm đã đưa ra ba hướng xử lý khác nhau.
Cứ xem như đây là loại giao dịch đặc thù, nên Luật Kinh doanh bảo hiểm có thể quy định khác hơn so với Bộ luật Dân sự về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng. Tuy nhiên, nếu như có hành vi lừa dối khi giao kết hợp đồng, nghĩa là đã vi phạm nguyên tắc trung thực trong xác lập quyền và nghĩa vụ dân sự theo quy định Bộ luật Dân sự. Và trường hợp có sự vi phạm nguyên tắc này, thì Bộ luật Dân sự được ưu tiên áp dụng[4], nghĩa là, ở trường hợp này, không thể xử lý theo hướng các bên có quyền đình chỉ hợp đồng, hủy hợp đồng mà phải tuyên bố hợp đồng phải bị vô hiệu.
Có thể nói, việc quy định về tình huống và cách xử lý khi các bên vi phạm về nghĩa vụ cung cấp thông tin trong Luật Kinh doanh bảo hiểm không chỉ mâu thuẫn với quy định Bộ luật Dân sự, mà ngay trong những quy định của Luật này cũng thiếu sự thống nhất và đồng bộ. Việc đề cao tính trung thực trong xác lập các giao dịch dân sự là quan trọng. Tuy nhiên, trong trường hợp này, nếu lấy tính trung thực để làm điều kiện tiên quyết và hướng xử lý vi phạm về nghĩa vụ cung cấp thông tin là tuyên vô hiệu hợp đồng bảo hiểm xem như chưa thật hợp lý. Thêm vào đó, Luật Kinh doanh bảo hiểm còn cho thấy sự bất cập khi đưa các hướng xử lý như: đình chỉ hợp đồng, hủy hợp đồng. Đây là những chế tài được quy định trong Luật Thương mại 2005. Trong khi đó, Bộ luật Dân sự năm 2015 chỉ quy định về biện pháp hủy hợp đồng. Vấn đề này cần phải được giải quyết cả về lý luận và thực tiễn quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, Luật Kinh doanh bảo hiểm quy định về nghĩa vụ cung cấp thông tin của các chủ thể khi giao kết hợp đồng bảo hiểm, nhưng lại không quy định về hình thức cung cấp thông tin. Thực tế cho thấy, doanh nghiệp bảo hiểm trực tiếp hoặc thông qua đại lý bảo hiểm cung cấp thông tin bảo hiểm, hình thức cung cấp bằng lời nói. Điều này dẫn đến bên mua bảo hiểm luôn phải chịu thiệt khi có tranh chấp xảy ra liên quan đến hợp đồng bảo hiểm, đặc biệt là các điều khoản về phí bảo hiểm, trường hợp loại trừ trách nhiệm bảo hiểm, cần thiết quy định thêm điều khoản về hình thức cung cấp thông tin của các bên bằng văn bản hoặc các hình thức tương đương văn bản trong trường hợp này. Liên quan đến hướng xử lý khi vi phạm hợp đồng, Luật Kinh doanh bảo hiểm cần xây dựng một số khái niệm hoặc ít nhất cũng có những nguyên tắc cho việc xác định các giá trị như: Giá trị hoàn lại của hợp đồng bảo hiểm, chi phí hợp lý có liên quan… để bảo vệ quyền lợi cho người mua bảo hiểm.
3. Về nghĩa vụ bảo mật thông tin trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm
Luật Kinh doanh bảo hiểm không quy định về nghĩa vụ bảo mật thông tin khách hàng của doanh nghiệp cũng là một vấn đề cần nghiên cứu để bổ sung. Luật Kinh doanh bảo hiểm nên bổ sung điều khoản quy định về trách nhiệm bảo mật thông tin của doanh nghiệp bảo hiểm khi bên mua bảo hiểm có yêu cầu hoặc mặc nhiên được bảo vệ ngay cả trong trường hợp không có yêu cầu đối với một số thông tin nhất định. Quy định cụ thể về trách nhiệm bảo mật thông tin và nghĩa vụ chứng minh thiệt hại; doanh nghiệp bảo hiểm phải đảm bảo cho người mua bảo hiểm có quyền truy cập bằng mã số hợp đồng bảo hiểm và mật khẩu để kiểm tra thông tin khi cần thiết và cũng là để xem xét đến trách nhiệm bồi thường khi xảy ra những thiệt hại liên quan đến bảo mật thông tin.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và chủ động hội nhập sâu rộng, Việt Nam có nhiều tiềm năng và điều kiện phát triển thị trường tài chính nói chung và thị trường bảo hiểm nói riêng. Tuy nhiên, chúng ta chỉ phát huy được những lợi thế đó khi xây dựng được môi trường pháp lý rõ ràng, thuận lợi cho các chủ thể thực hiện, tạo hành lang pháp lý an toàn, công bằng, hợp lý cho các chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật kinh doanh bảo hiểm, đưa hoạt động kinh doanh bảo hiểm trở thành một trong những hoạt động thương mại phổ biến, hiệu quả và mang nhiều lợi ích cho đất nước.
Đại học Mở TP. Hồ Chí Minh
[1]. Nguyễn Tiến Hùng, Nhận diện những bất cập và giải pháp cho thị trường bảo hiểm Việt Nam trong giai đoạn hội nhập mới, Tạp chí Phát triển và Hội nhập, số 36 tháng 2/2006.
[2]. Điều 59 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2010).
[3].Điểm a khoản 2 Điều 19 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2010).
[4]. Điều 4 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về việc áp dụng Bộ luật Dân sự.