Thứ sáu 04/07/2025 23:00
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Một số vấn đề pháp lý về huy động vốn cho dự án hạ tầng giao thông theo phương thức đối tác công tư từ chứng khoán hóa

Bài viết giới thiệu khái quát về chứng khoán hóa, qua đó phân tích một số vấn đề pháp lý về huy động vốn cho dự án hạ tầng giao thông theo phương thức đối tác công tư từ hoạt động chứng khoán hóa


1. Một số nét khái quát về chứng khoán hóa

1.1. Khái niệm chứng khoán hóa

Hiện nay, có nhiều định nghĩa và cách giải thích học thuật khác nhau về chứng khoán hóa: “Chứng khoán hóa là quá trình phát hành chứng khoán khả mại mới, được đảm bảo bởi các tài sản như các khoản vay, thế chấp, nợ thẻ tín dụng hoặc tài sản khác (bao gồm các khoản phải thu trên tài khoản)”[1]; “Chứng khoán hóa là một quá trình tài chính cơ cấu, tại đó các tài sản thế chấp khác nhau của những người đi vay được tập hợp và đóng gói rồi được dùng làm bảo đảm để phát hành các trái phiếu (trái phiếu bảo đảm bằng tài sản)[2]. Khi xem xét nội hàm của khái niệm chứng khoán hóa, có thể rút ra một số điểm cơ bản của hoạt động này như sau:

- Chứng khoán hóa là kênh liên thông giữa thị trường tín dụng ngân hàng với thị trường chứng khoán. Bản thân hai thị trường này đều là thị trường vốn, nhưng có những sự khác biệt với nhau về cách thức huy động vốn, về sản phẩm, về thời hạn, về tính thanh khoản.

- Chứng khoán hóa làm thay đổi tính thanh khoản của tài sản thế chấp. Khi thực hiện việc vay nợ, bên vay phải thế chấp tài sản cho bên cho vay, với giá trị tài sản lớn hơn giá trị của khoản vay. Khi đưa vào hoạt động chứng khoán hóa, tài sản thế chấp trở thành tài sản cơ sở cho trái phiếu có bảo đảm, nên tận dụng được tính thanh khoản cao và linh hoạt vốn có của trái phiếu.

- Chứng khoán hóa giúp các tổ chức tín dụng đa dạng hóa sản phẩm của mình trên thị trường, nhưng không chịu các giới hạn cấp tín dụng, trích lập dự phòng và giới hạn trong lĩnh vực tín dụng.

- Hoạt động chứng khoán hóa có sự phân tán và chuyển rủi ro từ các tổ chức tín dụng sang nhà đầu tư trái phiếu.

1.2. Các bên liên quan trong hoạt động chứng khoán hóa

Chứng khoán hóa là một quá trình dịch chuyển và vận động của tài sản thế chấp, của khả năng thanh khoản và rủi ro, nên có sự tham gia của nhiều chủ thể khác nhau, mà chủ yếu là bốn đối tượng như sau:

Thứ nhất, bên vay, bên thế chấp là bên có nhu cầu sử dụng vốn và sẵn sàng sử dụng tài sản của mình để thế chấp cho bên cho vay để bảo đảm cho nghĩa vụ hoàn trả tiền gốc và lãi. Nhu cầu của bên vay, bên thế chấp tài sản là huy động vốn để tài trợ cho các hoạt động sản xuất và kinh doanh của mình và có nghĩa vụ sử dụng tài sản để bảo đảm cho nghĩa vụ hoàn trả tiền gốc và lãi của khoản vay.

Thứ hai, tổ chức tín dụng với tư cách là bên khởi tạo, là đơn vị trực tiếp cấp vốn cho bên cho vay và tiếp nhận tài sản bảo đảm từ bên thế chấp tài sản; và hưởng một khoản phí thu xếp vốn mà không phải là khoản tiền lãi cho vay như trong quan hệ tín dụng thông thường.

Thứ ba, tổ chức phát hành chứng khoán là đơn vị mua lại khoản vay (khoản phải thu) từ bên khởi tạo và tiếp nhận tài sản thế chấp của bên vay từ bên khởi tạo và áp dụng các biện pháp kỹ thuật nghiệp vụ để phát hành chứng khoán cho nhà đầu tư để thu tiền và thanh toán lại cho bên khởi tạo.

Thứ tư, nhà đầu tư tham gia vào hoạt động chứng khoán hóa với tư cách là người mua chứng khoán trên thị trường chứng khoán và được bảo đảm quyền đòi thanh toán tiền gốc và lãi từ chứng khoán bằng tài sản thế chấp của bên vay; hưởng lợi và chịu rủi ro từ sự tăng giảm của giá chứng khoán và được bảo đảm tính thanh khoán bằng việc bán lại chứng khoán cho nhà đầu tư khác. Nhà đầu tư chính là người cấp vốn cho bên cho vay thông qua sự trung gian và thu xếp của tổ chức khởi tạo và tổ chức phát hành chứng khoán.

Ngoài bốn chủ thể chính nêu trên, trong quan hệ chứng khoán hóa, còn có sự xuất hiện và giữ vai trò quan trọng của một số đơn vị tư vấn khác như tổ chức tư vấn phát hành chứng khoán, tổ chức xếp hạng tín nhiệm, tổ chức tư vấn pháp lý.

1.3. Cơ chế thu hồi tiền gốc và lãi từ chứng khoán

Trong hoạt động chứng khoán hóa, tiền gốc và lãi mà nhà đầu tư thu hồi từ hoạt động đầu tư vào chứng khoán được hình thành từ dòng tiền tương lai thu từ tài sản thế chấp, dẫn tới việc thanh toán đó được thực hiện định kỳ và chia thành nhiều lần trong suốt thời gian tồn tại của chứng khoán. Do đó, vào thời điểm đáo hạn, giá trị của chứng khoán từ hoạt động chứng khoán hóa sẽ tiệm cận về không.

Như đề cập ở trên, cơ chế thu hồi tiền gốc và lãi từ chứng khoán trong hoạt động chứng khoán hóa dựa trên dòng tiền sản sinh trong tương lai mà không phải là giá trị hiện tại của tài sản. Do đó, đặc điểm này đặt ra yêu cầu đối với tài sản thế chấp phải là tài sản có khả năng sản sinh ra dòng tiền trong tương lai một cách ổn định, đáng tin cậy. Từ đặc điểm này, dẫn tới hoạt động chứng khoán hóa đặc biệt phù hợp với các dự án có tài sản thế chấp là dự án bất động sản, bất động sản cho thuê, hoặc các khoản phải thu (khoản vay từ thẻ tín dụng, các khoản vay), các dự án hạ tầng giao thông có thu phí.

2. Huy động vốn cho các dự án hạ tầng giao thông theo phương thức đối tác công tư từ chứng khoán hóa

2.1. Chủ thể huy động vốn

Trong các dự án đầu tư vào hạ tầng giao thông theo phương thức đối tác công tư (dự án PPP) tại Việt Nam hiện nay, cơ cấu nguồn vốn chủ yếu gồm ba phần là nguồn từ Nhà nước, vốn chủ sở hữu của nhà đầu tư và vốn vay.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 69 Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư năm 2020 thì tỷ lệ vốn nhà nước tham gia dự án PPP không quá 50% tổng mức đầu tư của dự án. Theo quy định tại Điều 77 Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư năm 2020 thì “nhà đầu tư phải góp vốn chủ sở hữu tối thiểu là 15% tổng mức đầu tư dự án không bao gồm vốn nhà nước”. Như vậy, mặc dù mỗi dự án sẽ có mỗi tỷ lệ nguồn vốn khác nhau, nhưng căn cứ vào quy định pháp luật hiện hành và thực tiễn, thì cơ cấu nguồn vốn trong dự án PPP sẽ là: Vốn nhà nước tối đa là 50%; vốn chủ sở hữu tối thiếu là 15% và vốn huy động khác tối đa là 35%.

Như vậy, phần vốn huy động khác trong một dự án PPP trong lĩnh vực hạ tầng giao thông chiếm tới hơn 35% tổng vốn đầu tư của dự án và trách nhiệm huy động vốn thuộc về chủ đầu tư. Trong các thỏa thuận về cấp vốn, ngân hàng áp dụng cơ chế thu hồi tiền gốc và lãi huy động là từ nguồn doanh thu của dự án. Nói cách khác, tài sản bảo đảm cho nghĩa vụ hoàn trả khoản vay trong các dự án PPP là dòng tiền sản sinh ra từ chính dự án PPP trong tương lai.

Theo quy định tại Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư năm 2020, thì mỗi dự án PPP sẽ thành lập một doanh nghiệp dự án để thực hiện hợp đồng dự án và vận hành công trình trong tương lai. Trong quan hệ tín dụng vay vốn với ngân hàng, doanh nghiệp dự án và nhà đầu tư đóng vai trò là bên vay và chịu trách nhiệm hoàn trả khoản vay cho ngân hàng, ngân hàng được quyền tiếp nhận lại dự án PPP trong trường hợp doanh nghiệp dự án, nhà đầu tư không thể hoàn trả khoản vay theo thỏa thuận tại hợp đồng tín dụng.

2.2. Những vấn đề đặt ra đối với hoạt động huy động vốn cho dự án PPP trong hạ tầng giao thông từ chứng khoán hóa

Thứ nhất, cơ chế chia sẻ rủi ro trong dự án đối tác công tư. Như đã đề cập ở những phần trên, tài sản bảo đảm cho nghĩa vụ hoàn trả tiền gốc và lãi trên khoản vay của bên vay chính là dòng tiền sản sinh từ dự án, tức là từ doanh thu của dự án. Tuy nhiên, các bên cho vay có lý do để lo lắng và “ngần ngại” trong việc cấp vốn bởi tính không chắc chắn và rủi ro trong khả năng thu phí theo kế hoạch tài chính mà dự án hạ tầng giao thông theo phương thức PPP có thể gặp phải. Để hạn chế các rủi ro có thể xảy ra, “Chính phủ có thể khuyến khích sự tham gia của khối tư nhân vào các dự án PPP bằng cách giảm bớt các rủi ro thông qua biện pháp hỗ trợ Chính phủ như bảo đảm. Bảo đảm Chính phủ là nghĩa vụ bảo đảm có giá trị cao nhất theo thỏa thuận bằng văn bản ràng buộc hoặc tiềm ẩn sự ràng buộc nhằm đáp ứng những nghĩa vụ nhất định trong bản hợp đồng, hoặc để bảo vệ bên thụ hưởng bảo đảm trước những rủi ro xác định nếu một số điều kiện cụ thể xảy ra”[3]. Điều đó có ý nghĩa rằng, doanh nghiệp dự án và nhà đầu tư trong dự án hạ tầng giao thông theo phương thức đối tác công tư cần có sự bảo đảm từ Chính phủ nhằm hạn chế và loại trừ các rủi ro về doanh thu và dòng tiền sản sinh ra từ dự án trong tương lại để biến dòng tiền đó thành một loại tài sản cơ sở có đủ độ tín nhiệm bảo đảm cho chứng khoán phát hành nếu muốn huy động vốn từ hoạt động chứng khoán hóa.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 82 Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư năm 2020 thì “khi doanh thu thực tế đạt cao hơn 125% mức doanh thu trong phương án tài chính tại hợp đồng dự án PPP, nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án PPP chia sẻ với Nhà nước 50% phần chênh lệch giữa doanh thu thực tế và mức 125% doanh thu trong phương án tài chính” và theo quy định tại khoản 2 Điều 82 thì “khi doanh thu thực tế đạt thấp hơn 75% mức doanh thu trong phương án tài chính tại hợp đồng dự án PPP, Nhà nước chia sẻ với nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án PPP 50% phần chênh lệch giữa mức 75% doanh thu trong phương án tài chính và doanh thu thực tế”. Lưu ý rằng, cũng theo quy định tại Điều 82 Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư năm 2020, thì việc chia sẻ phần giảm doanh thu đối với dự án BOT chỉ được áp dụng khi đáp ứng các điều kiện gồm: (i) Quy hoạch, chính sách, pháp luật có liên quan thay đổi làm giảm doanh thu; (ii) Đã thực hiện đầy đủ các biện pháp điều chỉnh mức giá, phí sản phẩm, dịch vụ công, điều chỉnh thời hạn hợp đồng dự án PPP theo quy định tại các điều 50, 51 và 65 Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư năm 2020 nhưng chưa bảo đảm mức doanh thu tối thiểu là 75%; (iii) Đã được Kiểm toán nhà nước thực hiện kiểm toán phần giảm doanh thu. Điều đó có ý nghĩa rằng, việc Chính phủ chia sẻ rủi ro với nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án không phải mặc định trong mọi trường hợp, mà chỉ hạn chế trong một số trường hợp cá biệt. Do đó, những rủi ro đối với dòng tiền tương lai của dự án vẫn giữ nguyên, nên sẽ làm giảm mức độ tín nhiệm của tài sản bảo đảm nếu huy động vốn từ chứng khoán hóa.

Từ một số ý phân tích trên có thể thấy rằng, cơ chế chia sẻ rủi ro quy định tại Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư năm 2020 còn hạn chế, chưa bảo đảm cho sự an toàn cho dòng tiền tương lai của dự án PPP. Do đó, điểm tín nhiệm đối với tài sản bảo đảm khi thực hiện chứng khoán hóa sẽ rất thấp nên khả năng huy động vốn từ thị trường này cũng rất thấp.

Thứ hai, đánh giá tính tương thích của quy định trong Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư năm 2020 với những đòi hỏi của hoạt động chứng khoán hóa. Đối với các dự án hạ tầng giao thông theo phương thức PPP, cần có các quy định pháp luật cụ thể và hữu hiệu để cho phép doanh nghiệp dự án, nhà đầu tư thế chấp quyền kinh doanh công trình dự án cho tổ chức tín dụng; cho phép tổ chức tín dụng bán khoản phải thu từ doanh nghiệp dự án, nhà đầu tư cho một đơn vị khác; quyền của đơn vị phát hành chứng khoán trong việc tiếp nhận tài sản bảo đảm là quyền kinh doanh công trình dự án và sử dụng quyền kinh doanh công trình dự án đó làm tài sản bảo đảm để phát hành chứng khoán; cơ chế xử lý trong trường hợp doanh nghiệp dự án, nhà đầu tư không hoàn trả được khoản tiền gốc và lãi cho nhà đầu tư mua chứng khoán. Qua khảo cứu các quy định của Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư năm 2020 hiện hành và các quy định khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam, tác giả nhận thấy rằng:

- Đối với thị trường sơ cấp, Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư năm 2020 mới quy định một cách chưa rõ ràng: “Trong quá trình thực hiện hợp đồng dự án PPP, quyền của bên cho vay thực hiện theo thỏa thuận của các bên trong hợp đồng cấp tín dụng, hợp đồng dự án PPP và quy định của pháp luật có liên quan”[4]. Điều này dẫn đến cơ sở pháp lý cho việc doanh nghiệp dự án, nhà đầu tư thế chấp quyền kinh doanh công trình dự án cho tổ chức tín dụng để vay vốn không chắc chắn và đầy đủ, nên các tổ chức tín dụng còn e ngại trong việc cấp vốn cho các dự án PPP.

- Đối với thị trường thứ cấp, Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư năm 2020 và quy định pháp luật có liên quan chưa có quy định nào để bảo đảm cho hoạt động chứng khoán hóa (quyền của doanh nghiệp dự án, nhà đầu tư trong việc thế quyền thu phí; quyền của ngân hàng trong việc bán khoản nợ và chuyển tài sản thế chấp cho bên thu xếp phát hành chứng khoán...).

Như vậy, có thể nói, chứng khoán hóa là kỹ thuật huy động vốn có nhiều ưu điểm, đặc biệt phù hợp với các dự án hạ tầng giao thông đầu tư theo phương thức đối tác công tư, nên cần có sự nghiên cứu và hoàn thiện hệ thống hạ tầng về cơ sở pháp lý để có thể triển khai tại Việt Nam. Để thị trường chứng khoán hóa có thể vận hành, cần có các giải pháp bảo đảm từ Chính phủ để tăng điểm tín dụng của tài sản thế chấp, thông qua việc bảo lãnh và chia sẻ rủi ro. Với các quy định pháp luật hiện hành trong lĩnh vực đầu tư theo đối tác công tư, chưa cho phép luân chuyển tài sản thế chấp từ thị trường sơ cấp sang thị trường thứ cấp nên chưa thể thực hiện hoạt động chứng khoán hóa. Bên cạnh đó, các chế định liên quan đến thị trường vốn của Việt Nam vẫn còn sơ khai nên thị trường vốn chưa thực sự hoàn thiện, thiếu hàng lang cần thiết để các dự án hạ tầng giao thông đầu tư theo phương thức đối tác công tư có thể huy động vốn từ nguồn chứng khoán hóa. Do đó, cùng với việc sửa đổi, bổ sung các quy định trong pháp luật về đầu tư theo phương thức đối tác công tư thì việc hoàn thiện các cơ sở pháp lý cho thị trường vốn cũng hết sức quan trọng và cấp bách.

Luật sư Hà Huy Phong
Công ty Luật TNHH Inteco



[1]. Theo từ điển của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD)

[2]. Báo cáo “Bảo đảm Chính phủ cho việc huy động vốn đầu tư tư nhân trong hạ tầng” do Ngân hàng Thế giới phát hành năm 2019.

[3]. Điều 5 Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư năm 2020.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Thúc đẩy hộ kinh doanh chuyển đổi thành doanh nghiệp - Thách thức từ chính sách thuế mới và giải pháp

Thúc đẩy hộ kinh doanh chuyển đổi thành doanh nghiệp - Thách thức từ chính sách thuế mới và giải pháp

Khuyến khích hộ kinh doanh chuyển đổi sang doanh nghiệp là chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước, góp phần thực hiện mục tiêu phấn đấu có 02 triệu doanh nghiệp đến năm 2030 và 03 triệu doanh nghiệp đến năm 2045. Để chính sách phát huy hiệu quả cũng cần có những giải pháp để khắc phục những khó khăn, thách thức. Đây là một trong những nội dung nhận được sự quan tâm của dư luận xã hội và được các đại biểu Quốc hội chất vấn tại Phiên chất vấn về nhóm vấn đề thứ nhất thuộc lĩnh vực tài chính diễn ra vào sáng ngày 19/6/2025.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính tập trung xử lý những lĩnh vực mới phát sinh, đòi hỏi cấp thiết từ thực tiễn và đang có “khoảng trống” pháp lý

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính tập trung xử lý những lĩnh vực mới phát sinh, đòi hỏi cấp thiết từ thực tiễn và đang có “khoảng trống” pháp lý

Đây là chia sẻ của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh tại phiên họp toàn thể tại Hội trường Quốc hội sáng ngày 25/6/2025 về Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính. Với 435/435 đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành (đạt tỷ lệ 100% đại biểu tham gia biểu quyết), Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam với nhiều quy định “mở”, góp phần thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao đóng góp vào sự phát triển của đất nước

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam với nhiều quy định “mở”, góp phần thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao đóng góp vào sự phát triển của đất nước

Sáng 24/6/2025, với 416/416 đại biểu Quốc hội tham gia biểu quyết tán thành (đạt tỷ lệ 100% đại biểu có mặt), Quốc hội đã biểu quyết thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam.
Vai trò của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong mô hình chính quyền địa phương hai cấp

Vai trò của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong mô hình chính quyền địa phương hai cấp

Ngày 16/6/2025, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV đã thông qua Luật số 72/2025/QH15 (Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2025) đã nâng tầm vị trí, vai trò, chức năng của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh theo hướng chuyển đổi từ tư duy điều hành tập thể sang phát huy vai trò cá nhân, gắn với chế độ, trách nhiệm rõ ràng, cụ thể. Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh không chỉ là người đứng đầu về mặt hành chính mà còn là hạt nhân điều hành, góp phần hiện thực hóa mô hình quản trị địa phương hiện đại.
Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Đây là chia sẻ của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh khi trao đổi với chúng tôi về 28 nghị định của Chính phủ về phân quyền, phân cấp; phân định thẩm quyền giữa Chính phủ và chính quyền địa phương 02 cấp.
Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 11/6/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 120/2025/NĐ-CP quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 120/2025/NĐ-CP). Nghị định bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động bình thường, liên tục, thông suốt của các cơ quan; không để gián đoạn công việc, không để chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực, địa bàn; không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của xã hội, người dân, doanh nghiệp khi thực hiện chính quyền địa phương hai cấp từ ngày 01/7/2025 trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Nhằm thể chế hoá đầy đủ quan điểm chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phân quyền, phân cấp; bảo đảm việc triển khai nhiệm vụ được thông suốt, hiệu quả, kịp thời, cải cách tối đa thủ tục hành chính, giảm chi phí, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, Chính phủ ban hành Nghị định số 121/2025/NĐ-CP quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 121/2025/NĐ-CP).
Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Định hướng lập pháp nhiệm kỳ Quốc hội khóa XVI của Chính phủ

Định hướng lập pháp nhiệm kỳ Quốc hội khóa XVI của Chính phủ

Ngày 10/4/2025, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 745/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Định hướng lập pháp nhiệm kỳ Quốc hội khóa XVI của Chính phủ” (Đề án).
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.

Theo dõi chúng tôi trên:

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm