1. Bối cảnh quốc tế và trong nước
Trong giai đoạn hiện nay và những năm tiếp theo, tình hình quốc tế, khu vực tiếp tục biến đổi phức tạp, khó lường; thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen, tác động, ảnh hưởng trên nhiều mặt đến đất nước. Hòa bình, hợp tác, liên kết và phát triển vẫn là xu thế chủ đạo, nhưng cạnh tranh địa chính trị, địa kinh tế và cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn gay gắt và ngày càng phức tạp, trực diện và quyết liệt hơn, tác động đến an ninh, phát triển kinh tế toàn cầu, đặt ra nhiều thách thức về vấn đề phát triển kinh tế, xã hội, chính trị, lợi ích của các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Dự báo tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp; các thách thức an ninh phi truyền thống, nhất là thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu, an toàn thông tin, an ninh mạng và tội phạm ngày càng gia tăng.
Ở trong nước, chúng ta được kế thừa thành tựu của hơn 30 năm đổi mới, thế và lực của đất nước ngày càng lớn mạnh; tình hình chính trị, xã hội ổn định; kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát; môi trường đầu tư, kinh doanh và năng lực cạnh tranh quốc gia được cải thiện; hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng; vị thế và uy tín quốc tế của nước ta tiếp tục được nâng cao, chủ quyền quốc gia được bảo vệ vững chắc, góp phần duy trì môi trường hòa bình phục vụ phát triển đất nước. Bên cạnh những kết quả tích cực, đất nước ta vẫn đang đối mặt với không ít khó khăn, thách thức, tồn tại và hạn chế. Các vấn đề văn hóa, xã hội, môi trường đang tạo áp lực lớn đến phát triển bền vững trong bối cảnh hội nhập. Đời sống của một bộ phận dân cư còn khó khăn, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng bị thiên tai; tình hình trật tự, an toàn xã hội, tội phạm trên một số địa bàn, lĩnh vực diễn biến phức tạp; sử dụng đất đai, tài nguyên còn nhiều lãng phí; tình trạng ô nhiễm môi trường ở nhiều nơi...
Bên cạnh những khó khăn, thách thức đó, thế giới đang bước vào giai đoạn phát triển mới với nhiều động lực tăng trưởng như cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 làm cải tiến năng suất và năng lực sản xuất. Sự phát triển của nền kinh tế chia sẻ và xu hướng tăng cường ký kết các hiệp định thương mại đa phương và song phương của các nền kinh tế đã thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế thông qua việc tối ưu hóa nguồn lực, thúc đẩy lưu thông vốn và hàng hóa; tăng cường vốn đầu tư cơ sở hạ tầng và phát triển công nghệ. Xu thế này sẽ ảnh hưởng nhiều đến cầu lao động khi cơ cấu việc làm và yêu cầu về kỹ năng trình độ sẽ thay đổi nhanh chóng. Để chủ động đón nhận “làn sóng”, sự ảnh hưởng sâu rộng của cuộc cách mạng này đối với Việt Nam, ngày 27/9/2019, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 52-NQ/TW về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Theo đó, toàn bộ hệ thống chính trị và người dân phải chủ động, tích cực tham gia cuộc cách mạng, các cơ quan, tổ chức của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc… chuyển đổi số mạnh mẽ, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận mọi chính sách, pháp luật thông qua môi trường mạng.
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đã xác định: “Hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm phát huy mạnh mẽ dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân; đồng thời xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh; cải cách tư pháp, tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội, trước hết là sự gương mẫu tuân theo pháp luật”[1].
Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới đã xác định mục tiêu “xây dựng ý thức và lối sống thượng tôn Hiến pháp và pháp luật trong hệ thống chính trị và toàn xã hội”[2].
Vai trò làm chủ của người dân được khẳng định như là mục tiêu, là động lực phát triển của xã hội. Tinh thần thượng tôn pháp luật ngày càng trở thành chuẩn mực trong ứng xử của người dân, hình thành nếp sống và làm việc theo Hiến pháp, pháp luật, nhu cầu tham gia của người dân vào hoạt động xây dựng và thực hiện pháp luật ngày càng gia tăng. Người dân nói chung và người lao động trong các doanh nghiệp nói riêng đang đứng trước những cơ hội, thách thức. Trước tình hình, cơ hội và thách thức nêu trên, công tác giáo dục pháp luật đặt ra những vấn đề mới cần thay đổi về tư duy, nhận thức, nội dung, hình thức, phương pháp, cách tiếp cận để có thể đáp ứng được tốt hơn yêu cầu, bối cảnh mới, phù hợp với nhu cầu và lợi ích chính đáng của người dân, sự phát triển chung của xã hội.
2. Yêu cầu đối với công tác giáo dục pháp luật cho người lao động trong các doanh nghiệp thời gian tới
Một là, đổi mới về tư duy, nhận thức về công tác giáo dục pháp luật nói chung và giáo dục pháp luật cho người lao động trong doanh nghiệp nói riêng đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.
Về công tác giáo dục pháp luật nói chung, cần tiếp tục nâng cao nhận thức về vai trò quan trọng và ý nghĩa to lớn của công tác giáo dục pháp luật trong thời kỳ mới, là nhiệm vụ xuyên suốt trong quá trình hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bảo đảm quyền con người và quyền công dân; coi đó là một bộ phận không thể tách rời của công tác giáo dục chính trị - tư tưởng, là nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng; góp phần đưa chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước thực sự đi vào cuộc sống, trở thành ý thức, hành động của từng cá nhân, tổ chức trong xã hội; tăng cường và đổi mới toàn diện, sâu sắc sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền đối với công tác giáo dục pháp luật; nguyên tắc Nhà nước giữ vai trò nòng cốt trong công tác giáo dục pháp luật, đồng thời cũng là trách nhiệm của toàn dân trong việc tìm hiểu, tuân thủ và chấp hành Hiến pháp, pháp luật; xác định trách nhiệm giáo dục pháp luật cho người lao động không chỉ là trách nhiệm của Nhà nước, của các cấp, các ngành mà là trách nhiệm của chính bản thân doanh nghiệp, người sử dụng lao động, công đoàn doanh nghiệp và của chính bản thân người lao động; đề cao tính chủ động, tự giác trong tìm hiểu, chấp hành pháp luật của người lao động; đẩy mạnh xã hội hóa trong công tác giáo dục pháp luật, thu hút mọi nguồn lực xã hội tham gia công tác này; xác định giáo dục pháp luật là tiền đề mang tính quyết định đến việc hình thành và nâng cao ý thức pháp luật cho mọi người, là một trong những biện pháp cơ bản có ý nghĩa chiến lược nhằm bồi dưỡng, xây dựng, hình thành nhân cách thế hệ con người mới, đáp ứng các yêu cầu của xã hội hiện tại và tương lai trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.
Về giáo dục pháp luật cho người lao động trong doanh nghiệp, trên cơ sở đổi mới tư duy như công tác giáo dục pháp luật nói chung, giáo dục pháp luật cho người lao động theo hướng tiếp cận quyền con người, quyền công dân, quyền, nghĩa vụ, lợi ích hợp pháp của người lao động. Tư duy trong tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật cho người lao động cần xuất phát từ nhu cầu của người lao động, chứ không xuất phát từ ý chí áp đặt của các chủ thể giáo dục pháp luật; tham gia vào quá trình giáo dục pháp luật để đạt được mục đích, yêu cầu đề ra cần có sự chủ động, tích cực không chỉ của chủ thể giáo dục pháp luật mà còn của đối tượng giáo dục pháp luật. Bên cạnh đó, quá trình tổ chức giáo dục pháp luật luôn xuất phát từ nhu cầu và đặc điểm của người lao động; nội dung, hình thức được xác định phù hợp, linh hoạt, sáng tạo và có trọng tâm, trọng điểm, ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin, chuyển đổi số; gắn triển khai giáo dục pháp luật cho người lao động với đánh giá hiệu quả qua các tiêu chí cụ thể; định kỳ đánh giá, kiểm tra, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, rút ra bài học kinh nghiệm và đề xuất giải pháp khắc phục tồn tại, hạn chế, nâng cao hiệu quả công tác giáo dục pháp luật cho người lao động, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công tác này trong thời gian tới.
Hai là, hoàn thiện các quy định pháp luật, thể chế chính sách theo hướng bảo đảm rõ hơn quyền của người lao động trong tiếp cận với pháp luật.
Ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật Lao động năm 2019 theo hướng cụ thể hóa và bảo đảm các quyền cho người lao động đã được Bộ luật Lao động năm 2019 sửa đổi, bổ sung theo hướng tiệm cận và phù hợp hơn với các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản của ILO và đáp ứng yêu cầu của thực tiễn hội nhập kinh tế quốc tế, bảo đảm sự thống nhất, phù hợp với một số luật mới ban hành về hình sự doanh nghiệp, đầu tư, tố tụng dân sự và các luật chuyên ngành tách ra từ nội dung của Bộ luật Lao động như: Luật Việc làm, Luật Giáo dục nghề nghiệp, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật An toàn - vệ sinh lao động.
Bên cạnh đó, nghiên cứu, rà soát, đề xuất sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật điều chỉnh về công tác giáo dục pháp luật, tiếp cận pháp luật của người dân như Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật, Luật Tiếp cận thông tin, Luật Hòa giải ở cơ sở và các văn bản hướng dẫn thi hành, Quyết định số 619/2019/QĐ-TTg ngày 08/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy định về xây dựng xã, phường, thị trấn đạt chuẩn tiếp cận pháp luật… tạo nên hành lang pháp lý vững chắc, thuận lợi, thống nhất trong đưa pháp luật tới người dân.
Ba là, đổi mới về nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục pháp luật phù hợp với nhu cầu của từng đối tượng thụ hưởng.
Công tác giáo dục pháp luật trong thời gian tới phải bảo đảm được tính tập trung, có trọng tâm, trọng điểm, xuất phát từ thực tiễn, nhu cầu của người dân, người lao động; nội dung được thông tin ngay từ khi là dự thảo văn bản pháp luật, phù hợp với nhu cầu của từng đối tượng, địa bàn, hướng mạnh về cơ sở, đặc biệt đối với nhóm đối tượng, địa bàn đang là điểm nóng về vi phạm pháp luật hoặc có nhiều vướng mắc về pháp luật. Đồng thời, đổi mới hình thức, mô hình trên nền tảng công nghệ thông tin, chuyển đổi số, đáp ứng kịp thời, đầy đủ, chính xác quyền tiếp cận thông tin pháp luật của người dân, tổ chức theo hướng chủ động, tích cực thích ứng cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Giáo dục pháp luật nhằm nâng cao hiểu biết pháp luật, kỹ năng sử dụng pháp luật để bảo vệ quyền con người, quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân, quyền, lợi ích hợp pháp của mình bảo đảm; người lao động không thụ động trong thụ hưởng kiến thức pháp luật do các chủ thể giáo dục pháp luật mang đến mà luôn có ý thức tự giác, chủ động trong tham gia vào quá trình giáo dục pháp luật; giáo dục pháp luật cho người lao động không chỉ dừng ở việc biết, hiểu, tuân thủ pháp luật mà còn xây dựng niềm tin, tình cảm, tôn trọng đối với pháp luật, từ đó dần xây dựng một thói quen, một nét văn hóa trong tìm hiểu và chấp hành pháp luật, góp phần xây dựng văn hóa pháp lý, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Bốn là, đổi mới về cơ chế, quy trình thực hiện giáo dục pháp luật.
Trước bối cảnh hiện nay, với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, sự phát triển nhanh, nóng của các doanh nghiệp và nền kinh tế, hội nhập, toàn cầu hóa đang diễn biến mạnh mẽ thì công tác giáo dục pháp luật cho người lao động không thể mãi tiếp tục theo cơ chế hành chính, thiếu chủ động và linh hoạt như hiện nay. Hiện nay, công tác giáo dục pháp luật đang thực hiện với vai trò nòng cốt là Nhà nước và phổ biến, giáo dục pháp luật là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị. Vì vậy, cơ chế, quy trình tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật đang nặng về hành chính, cơ quan cấp trên hướng dẫn cơ quan cấp dưới, địa phương thiếu tính chủ động trong chỉ đạo, hướng dẫn, tổ chức triển khai giáo dục pháp luật cho người lao động trong doanh nghiệp; việc phát huy các tổ chức, cá nhân ngoài hệ thống chính trị còn hạn chế. Trong thời gian tới, cần giảm bớt tính hành chính hóa, nâng cao tính chủ động, sáng tạo, đổi mới trong tổ chức, thực hiện giáo dục pháp luật cho người lao động trong doanh nghiệp, thu hút các nguồn lực từ xã hội, có cơ chế cụ thể thực hiện xã hội hóa công tác này, bảo đảm tính đa dạng và nâng cao chất lượng, tính chuyên nghiệp của các chủ thể giáo dục pháp luật, góp phần thực hiện giáo dục pháp luật cho người lao động được kịp thời, chính xác, phù hợp và hiệu quả.
Năm là, tham khảo kinh nghiệm một số nước trên thế giới về giáo dục pháp luật cho người lao động.
Trong quá trình hội nhập, hoạt động giáo dục pháp luật của Việt Nam nói chung và giáo dục pháp luật cho người lao động nói riêng cũng phải từng bước tiếp cận đến những chuẩn mực quốc tế, hòa cùng xu hướng phát triển của thời đại; tiếp cận những giá trị tiến bộ được nhân loại thừa nhận một cách có chọn lọc phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện thực tế Việt Nam; tìm hiểu, lựa chọn những mô hình, cách làm hay, phương pháp tiếp cận, quan điểm và nhận thức về vấn đề này của các nước trong khu vực ASEAN và một số nước tiên tiến trên thế giới cho người dân, người lao động để kịp thời điều chỉnh cho phù hợp, tránh mất thời gian, công sức, thiệt hại nhiều mặt nếu như chúng ta không đi đúng hướng.
Sáu là, bảo đảm về nguồn lực, kinh phí, cơ sở vật chất, xã hội hóa công tác giáo dục pháp luật.
Thực trạng hiện nay cho thấy, số lượng người lao động quá lớn, dịch chuyển lao động từ nông thôn tới thành phố và từ tỉnh, thành phố này sang tỉnh, thành phố khác, doanh nghiệp này sang doanh nghiệp khác luôn biến động, thường xuyên di chuyển, chất lượng lao động không cao, nhận thức pháp luật hạn chế, điều kiện tiếp cận với pháp luật còn khó khăn; bản thân công tác giáo dục pháp luật từ các chủ thể thực hiện cho người lao động còn chưa được thực hiện thường xuyên, kịp thời, có trọng tâm, trọng điểm và hiệu quả... Bối cảnh hiện nay đặt ra yêu cầu hết sức quan trọng là, số lượng và chất lượng nguồn nhân lực thực hiện công tác giáo dục pháp luật cần được nâng cao hơn nữa trong thời gian tới theo hướng tinh gọn, chuyên nghiệp, am hiểu sâu về kiến thức pháp luật và vững vàng về kỹ năng, nghiệp vụ giáo dục pháp luật cho người lao động; kinh phí dành cho công tác giáo dục pháp luật cần được tập trung ưu tiên, có trọng tâm, trọng điểm; thực hiện các chương trình, dự án cho người lao động cần xác định rõ mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ, giải pháp, tổ chức phân công trách nhiệm thực hiện…
Xã hội hóa công tác giáo dục pháp luật cho người lao động, thu hút đội ngũ luật sư, luật gia, những công chức đang công tác trong ngành liên quan tới pháp luật, những người có kiến thức pháp luật tham gia vào công tác giáo dục pháp luật cho người lao động; thu hút hiệu quả các nguồn lực trong xã hội tham gia giáo dục pháp luật, giảm thiểu gánh nặng từ phía Nhà nước.
3. Quan điểm giáo dục pháp luật cho người lao động trong doanh nghiệp
Thứ nhất, giáo dục pháp luật là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị, trong đó, hài hòa trách nhiệm giữa Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, người lao động, người sử dụng lao động, tổ chức đại diện cho người lao động; trong đó, Nhà nước giữ vai trò nòng cốt; sự tham gia thực chất và đúng trách nhiệm của các tổ chức công đoàn; đặc biệt phát huy tính tự giác, chủ động trong tìm hiểu, tuân thủ pháp luật của người lao động, trách nhiệm về vấn đề nội tại đối với doanh nghiệp của người sử dụng lao động.
Giáo dục pháp luật luôn được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị, Kết luận số 80-KL/TW ngày 20/6/2020 của Ban Bí thư về việc tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 32-CT/TW của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân đã xác định phổ biến, giáo dục pháp luật là “một bộ phận của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng; là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng”.
Giáo dục pháp luật cho người lao động cần sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, trong đó, đặc biệt phát huy vai trò của các chủ thể giáo dục pháp luật, tổ chức chính trị - xã hội, người lao động, người sử dụng lao động, tổ chức đại diện cho người lao động; sự tham gia thực chất và đúng trách nhiệm của các tổ chức công đoàn; đặc biệt phát huy tính tự giác, chủ động trong tìm hiểu, tuân thủ pháp luật của người lao động, trách nhiệm trong giải quyết các vấn đề nội tại đối với doanh nghiệp của người sử dụng lao động.
Thứ hai, giáo dục pháp luật cho người lao động phải được đặt trong mối quan hệ gắn kết chặt chẽ trong toàn bộ quá trình xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật.
Nếu như trước kia chúng ta xác định giáo dục pháp luật là khâu đầu tiên của tổ chức thi hành pháp luật thì hiện nay, theo tinh thần của Kết luận số 80-KL/TW ngày 20/6/2020 của Ban Bí thư, giáo dục pháp luật không chỉ là khâu đầu tiên của tổ chức thi hành pháp luật mà luôn được kết hợp chặt chẽ với toàn bộ quá trình xây dựng pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật. Giáo dục pháp luật sẽ khó đưa pháp luật vào cuộc sống hiệu quả nếu như không được đặt trong mối quan hệ trên. Giáo dục pháp luật cần được bắt đầu ngay từ khâu dự thảo và lấy ý kiến của các văn bản pháp luật và từ đó sẽ có được sự phản hồi của người dân, đặc biệt là đối tượng chịu sự tác động của văn bản, qua đó sẽ góp phần đem lại hệ thống văn bản pháp luật minh bạch, khả thi, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, doanh nghiệp. Chỉ khi ngay từ khâu dự thảo văn bản đã được tổ chức giáo dục pháp luật, được truyền thông để người dân hiểu rõ hơn về những quy định pháp luật, đặc biệt là những quy định pháp luật ảnh hưởng trực tiếp tới họ thì văn bản đó sau khi ban hành sẽ dễ đi vào cuộc sống, được đón nhận và tuân thủ.
Giáo dục pháp luật cần được gắn bó chặt chẽ với toàn bộ quá trình tổ chức thi hành pháp luật. Tổ chức thi hành nghiêm minh, đề cao tính nêu gương của cán bộ, đảng viên, của người tổ chức thi hành pháp luật, của những người “cầm cân nảy mực”... sẽ là yếu tố tác động to lớn tới tình cảm, niềm tin của người dân vào pháp luật; từ có tình cảm, niềm tin, pháp luật tự nhiên đi vào cuộc sống.
Thứ ba, đổi mới nội dung, hình thức, cách thức triển khai phù hợp với đối tượng người lao động.
Nội dung, phương pháp, hình thức giáo dục pháp luật là những thành tố cơ bản của hoạt động giáo dục pháp luật cho người lao động và phải được thực hiện phù hợp với các yếu tố đặc thù của người lao động, điều kiện, hoàn cảnh sống, làm việc của người lao động.
Nội dung giáo dục pháp luật cho người lao động cần được thực hiện ngay từ khâu soạn thảo, xây dựng pháp luật, đặc biệt các văn bản liên quan trực tiếp đến quyền, nghĩa vụ của người lao động. Các chủ thể giáo dục pháp luật cần xác định nội dung giáo dục pháp luật là giáo dục những vấn đề người lao động cần, không phải giáo dục những vấn đề mình có theo suy nghĩ chủ quan. Nội dung giáo dục pháp luật xuất phát từ cuộc sống, từ nhu cầu của người lao động, từ những vướng mắc, khó khăn họ đang gặp phải; bên cạnh đó, giáo dục pháp luật những vấn đề về quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động để họ có thể biết, hiểu, chấp hành và bảo vệ quyền của mình.
Hình thức giáo dục pháp luật luôn được xác định trên cơ sở yếu tố đặc thù của người lao động, điều kiện, môi trường sống và làm việc của người lao động. Đặc trưng của người lao động là làm việc theo ca, công việc đơn điệu, nặng nhọc, môi trường độc hại... vì vậy, lựa chọn hình thức giáo dục pháp luật phù hợp là yếu tố quan trọng. Các hình thức đó cần đa dạng, phù hợp với từng độ tuổi, ngành nghề, lĩnh vực, khu vực, địa bàn người lao động sinh sống, làm việc, cần ứng dụng công nghệ thông tin, mạng xã hội, công nghệ số, trí tuệ nhân tạo trong giáo dục pháp luật.
Phương pháp giáo dục pháp luật cho người lao động phải khoa học, hiện đại, gắn với sử dụng các thành tựu công nghệ thông tin, phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo của người nghe, khắc phục phương pháp truyền thụ một chiều. Các chủ thể giáo dục pháp luật luôn quan tâm trau dồi, rèn luyện kỹ năng, phương pháp theo hướng kết hợp hài hòa giữa thuyết trình với phương pháp tương tác với người nghe, nêu tình huống, đặt vấn đề; kết hợp trình bày các quy phạm pháp luật với các tình huống thực tiễn hoặc giả định; tăng cường đối thoại, thảo luận theo các chủ đề pháp luật... để kiến thức pháp luật được người lao động hiểu hơn, nhớ lâu hơn và có thể áp dụng để tháo gỡ những khó khăn về mặt pháp lý của mình trong cuộc sống.
Thứ tư, xác định người lao động là trung tâm thụ hưởng trong công tác giáo dục pháp luật, thúc đẩy các cơ chế bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động, giúp người lao động dễ dàng, thuận lợi trong khai thác, sử dụng pháp luật để bảo vệ và thực thi các quyền, nghĩa vụ pháp lý.
Bảo đảm quyền con người, quyền công dân, quyền được giáo dục pháp luật cho người lao động, lấy người lao động là trung tâm của hoạt động giáo dục pháp luật luôn là nguyên tắc, xác định là kim chỉ nam trong tư duy, nhận thức, trong mọi giải pháp, hành động của công tác giáo dục pháp luật. Từ việc xác định nguyên tắc này sẽ dẫn tới sự chuyển biến trong nhận thức, trong hành động của các cấp, các ngành, trong các kế hoạch triển khai công tác giáo dục pháp luật; sẽ có được sự quan tâm của các cấp ủy, chính quyền, tổ chức, cá nhân, người sử dụng lao động, cán bộ công đoàn, các chủ thể giáo dục pháp luật trong việc đưa pháp luật tới người lao động. Được sự quan tâm của các cấp, các ngành, các tổ chức, cá nhân, người lao động sẽ được thụ hưởng pháp luật nhanh hơn, phù hợp hơn, hiệu quả hơn bởi họ sẽ được thụ hưởng nội dung phù hợp với nhu cầu của họ, hình thức, cách làm phù hợp trình độ nhận thức, điều kiện, môi trường sống, làm việc đặc thù của họ. Luôn lấy người lao động làm trung tâm, những ý kiến, phản hồi của người lao động về phương thức, cách làm, nội dung, những khó khăn của họ trong tiếp cận pháp luật sẽ phải được các cấp, các ngành, các chủ thể giáo dục pháp luật quan tâm giải quyết để giáo dục pháp luật thực sự là một “kênh” đưa pháp luật tới người lao động dành được niềm tin, tình cảm, thuận theo và làm theo của người lao động.
TS. Ngô Quỳnh Hoa
Phó Cục trưởng Cục Phổ biến, giáo dục pháp luật, Bộ Tư pháp
[1]. Xem: http://baochinhphu.vn/Tin-noi-bat/Toan-van-Nghi-quyet-Dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-XIII-cua-Dang/424239.vgp.
[2]. Xem: https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/toan-van-nghi-quyet-27-nq-tw-tiep-tuc-xay-dung-va-hoan-thien-nha-nuoc-phap-quyen-119221126114455251.htm, truy cập ngày 09/01/2024.
(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 2 (Số 397), tháng 1/2024)