
![]() |
Toàn cảnh phiên họp. |
Trình bày Tờ trình dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc thù để thực hiện đột phá phát triển giáo dục và đào tạo, đại diện Bộ Giáo dục và Đào tạo cho biết, thời gian qua, mặc dù ngành Giáo dục đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, song, Việt Nam vẫn đang đối mặt với những "điểm nghẽn" mang tính hệ thống, cản trở sự phát triển đột phá, ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực cạnh tranh quốc gia như: Ngành Giáo dục chịu trách nhiệm nặng nề về chất lượng nhưng lại không được giao đủ quyền hạn tương xứng trong việc phân bổ, quản lý và sử dụng các nguồn lực về đội ngũ và kinh phí; chính sách xã hội hóa giáo dục chưa thực sự phát huy hiệu quả do thiếu các cơ chế đủ hấp dẫn; tình trạng thừa thiếu giáo viên cục bộ xảy ra nhiều năm qua ảnh hưởng trực tiếp đến việc triển khai chương trình giáo dục; tiếp cận giáo dục sau trung học cơ sở còn thấp, có chênh lệch đáng kể giữa các vùng miền và nhóm đối tượng… Do đó, cần thiết xây dựng và ban hành Nghị quyết của Quốc hội để tiếp tục có căn cứ chính trị, pháp lý đột phá, quan trọng, tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập quốc tế và chuyển đổi số ngày càng sâu rộng như hiện nay; đồng thời, bảo đảm đầy đủ cơ sở pháp lý để triển khai Nghị quyết số 71-NQ/TW ngày 22/8/2025 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo.
Trên cơ sở đó, dự thảo Nghị quyết được xây dựng gồm 10 điều, dự kiến sẽ tập trung giải quyết các vấn đề mang tính đột phá, chiến lược để thể chế hóa Nghị quyết số 71-NQ/TW như sau:
Thứ nhất, nhóm chính sách về tổ chức, nhân lực và quản trị (Điều 3 dự thảo Nghị quyết): Giải quyết vấn đề nhân lực ngành Giáo dục gồm tình trạng thừa thiếu giáo viên cục bộ, chế độ đãi ngộ; bất cập và các rào cản hành chính trong việc tuyển dụng, sử dụng nhân tài, chuyên gia.
![]() |
Đại diện Bộ Giáo dục và Đào tạo trao đổi tại phiên họp. |
Thứ hai, nhóm chính sách về chương trình, nội dung và cơ chế phát triển giáo dục (Điều 4 dự thảo Nghị quyết) được xây dựng nhằm tháo gỡ thủ tục hành chính trong thẩm định, phê duyệt và thí điểm chương trình giáo dục mới, tạo không gian và động lực cho sự đổi mới, sáng tạo từ cấp cơ sở, đáp ứng nhanh với sự thay đổi của thực tiễn.
Thứ ba, nhóm chính sách về chuyển đổi số, phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trong giáo dục (Điều 5 dự thảo Nghị quyết) nhằm đáp ứng yêu cầu của Chương trình Chuyển đổi số quốc gia và xu thế phát triển tất yếu của giáo dục thế giới, khắc phục tình trạng hạ tầng số và các nền tảng ứng dụng trong ngành còn manh mún, thiếu đồng bộ, chưa phát huy hiệu quả.
Thứ tư, nhóm chính sách về hội nhập quốc tế trong giáo dục và đào tạo (Điều 6 dự thảo Nghị quyết): Phá bỏ các rào cản hành chính, tạo môi trường thực sự mở và cạnh tranh để thu hút nhân tài toàn cầu, nâng cao vị thế và sức hấp dẫn của giáo dục Việt Nam trên trường quốc tế.
Thứ năm, nhóm chính sách về Quỹ học bổng quốc gia (Điều 7 dự thảo Nghị quyết) nhằm tạo cơ chế tài chính linh hoạt, bổ sung ngân sách nhà nước, để tài trợ cho các ý tưởng, dự án đổi mới, đột phá mà cơ chế ngân sách truyền thống khó đáp ứng kịp thời và hiệu quả.
Thứ sáu, nhóm chính sách về tài chính và đầu tư cho giáo dục và đào tạo (Điều 8 dự thảo Nghị quyết) được xây dựng nhằm giải quyết tình trạng đầu tư cho giáo dục chưa tương xứng, ngăn chặn sụt giảm ngân sách đầu tư cho giáo dục đại học và tăng cường huy động nguồn lực xã hội.
![]() |
Đại biểu trao đổi tại phiên họp. |
Tại phiên họp, các đại biểu đã trao đổi, thảo luận về một số nội dung liên quan đến dự thảo Nghị quyết, cụ thể: Điều 5 dự thảo Nghị quyết quy định về chuyển đổi số, phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trong giáo dục đang tập trung chủ yếu vào khía cạnh kỹ thuật mà chưa nêu ra vấn đề về an ninh mạng. Mặt khác, dự thảo Nghị quyết cũng không có điều khoản yêu cầu triển khai hệ thống thông tin giáo dục quốc gia phải tuân thủ Luật An ninh mạng, Nghị định số 13/2023/NĐ-CP ngày 17/4/2023 của Chính phủ về bảo vệ dữ liệu cá nhân. Điều này làm cho các dữ liệu giáo dục và nhân lực quốc gia nếu không được xác định là hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia và được Bộ Công an thẩm định an ninh sẽ có nguy cơ bị các cơ quan đặc biệt nước ngoài khai thác có mục đích, hoặc bị phụ thuộc kiểm soát về công nghệ bởi các đối tác nước ngoài. Do đó, một số đại biểu đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo cân nhắc bổ sung khoản 5 vào Điều 5 dự thảo Nghị quyết với nội dung quy định: (i) Việc xây dựng, phát triển và vận hành các nền tảng giáo dục số, hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu giáo dục quy định tại Điều này phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của pháp luật về an ninh mạng, an toàn thông tin mạng và bảo vệ dữ liệu cá nhân; (ii) Các hệ thống thông tin giáo dục có quy mô và dữ liệu cấp quốc gia được xác định là hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia và phải được Bộ Công an thẩm định về an ninh mạng trước khi đưa vào vận hành và khai thác.
Đối với Điều 6 dự thảo Nghị quyết quy định về hội nhập quốc tế trong giáo dục và đào tạo, có đại biểu cho rằng: (i) Khoản 1 đang tạo lỗ hổng về an ninh trật tự và có nguy cơ bị các cơ quan đặc biệt nước ngoài lợi dụng để xâm nhập hoạt động. Vì vậy, đại biểu đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo cân nhắc sửa đổi, bổ sung khoản 1 theo hướng quy định thí điểm cơ chế miễn thị thực và miễn giấy phép lao động trong thời gian 05 năm cho các chuyên gia, nhà khoa học là người nước ngoài có trình độ Tiến sĩ làm quản lý, giảng dạy, nghiên cứu khoa học và trao đổi học thuật tại các cơ sở giáo dục đại học, cơ sở giáo dục nghề nghiệp và tổ chức khoa học công nghệ công lập sau khi có ý kiến thẩm định về nhân thân, lý lịch của Bộ Công an theo quy định của pháp luật về nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam; (ii) Nội dung khoản 2 đang vượt quá thẩm quyền của các cơ sở giáo dục, do đó, cơ quan chủ trì soạn thảo cần nghiên cứu quy định việc thực hiện quản lý các chuyên gia nước ngoài thống nhất với Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam và phải bảo đảm vai trò thẩm định của cơ quan quản lý nhà nước về an ninh; (iii) Quy định tại khoản 5 cho phép sinh viên quốc tế làm việc tối đa 20 giờ/tuần trong thời gian học tập, nghiên cứu tại Việt Nam nhưng thiếu cơ chế quản lý, giám sát. Điều này có thể phát sinh nhiều vấn đề phức tạp về an ninh trật tự như cạnh tranh lao động, tranh chấp, lợi dụng để ở lại làm việc bất hợp pháp hoặc tham gia các hoạt động phạm tội. Trên cơ sở đó, đại biểu đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo cân nhắc bổ sung nội dung giao Chính phủ quy định chi tiết cơ chế quản lý, giám sát sinh viên quốc tế làm việc, trong đó quy định rõ trách nhiệm phối hợp giữa các cơ sở giáo dục, doanh nghiệp sử dụng lao động với Bộ Công an, Bộ Nội vụ và Ủy ban nhân dân các cấp vào khoản 5.
![]() |
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Đặng Hoàng Oanh phát biểu kết luận phiên họp. |
Phát biểu kết luận phiên họp, Thứ trưởng Bộ Tư pháp Đặng Hoàng Oanh đánh giá cao sự tận tâm của cơ quan chủ trì soạn thảo, đồng thời nhất trí về sự cần thiết phải ban hành Nghị quyết. Bên cạnh đó, Thứ trưởng cũng đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo nghiên cứu tiếp thu ý kiến của các thành viên Hội đồng thẩm định, trong đó, cần lưu ý căn cứ vào các nội dung của Nghị quyết số 71-NQ/TW để xác định cụ thể hơn phạm vi điều chỉnh của dự thảo Nghị quyết.
Cho ý kiến đối với dự thảo Nghị quyết, Thứ trưởng đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo nghiên cứu cân nhắc nội dung bổ nhiệm Giám đốc, Phó Giám đốc, Hiệu trưởng, Phó Hiệu trưởng cơ sở giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp công lập tại khoản 2 Điều 3 do những nội dung này đang được dự kiến quy định tại Điều 16 Luật Giáo dục đại học, Điều 12 Luật Giáo dục nghề nghiệp; nghiên cứu bảo đảm tính khả thi đối với quy định tại khoản 2 Điều 6 về việc giao cơ sở giáo dục đại học chịu trách nhiệm về tính hợp pháp của văn bằng, chứng chỉ, bởi, để xác định tính hợp pháp của văn bằng, chứng chỉ thì cần có sự phối hợp giữa cơ quan trong nước và cơ quan nước ngoài; tiếp tục rà soát các quy định về chính sách tài chính và đầu tư cho giáo dục và đào tạo bảo đảm không mâu thuẫn, chồng chéo với quy định trong Luật Giáo dục, Luật Giáo dục đại học và Luật Giáo dục nghề nghiệp./.