1. Đặt vấn đề
Luật Phòng, chống mua bán người được Quốc hội khóa XII thông qua, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2012 đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng trong công tác phòng ngừa, phát hiện, xử lý tội phạm mua bán người. Sau hơn 13 năm thi hành, công tác phòng, chống mua bán người đã đạt những kết quả tích cực, góp phần kiềm chế tội phạm và vi phạm pháp luật, bảo đảm trật tự an toàn xã hội và phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt, việc Việt Nam chính thức tham gia Tổ chức Cảnh sát hình sự quốc tế (INTERPOL) đã tạo ra tiền đề thuận lợi cho tiến trình hợp tác giữa Việt Nam và các nước trong khu vực trong lĩnh vực đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung, cũng như tội phạm mua bán người nói riêng. Các quy định của Luật Phòng, chống mua bán người năm 2011 đã đi vào đời sống xã hội, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật, ý thức cảnh giác và kỹ năng phòng ngừa tội phạm nói chung và phòng ngừa mua bán người nói riêng của nhân dân. Tuy nhiên, phương thức, thủ đoạn phạm tội của tội phạm mua bán người ở các địa phương ngày càng tinh vi, nhiều trường hợp phạm tội có tổ chức, có sự câu kết chặt chẽ giữa người mua và người bán. Trong khi đó, Luật hiện hành còn chồng chéo, chưa phù hợp với tình hình thực tiễn công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán người trong tình hình mới. Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật tuy được đổi mới, nhưng có nơi, có lúc vẫn còn mang tính hình thức, thiếu chiều sâu dẫn tới kết quả đạt được chưa như mong muốn.
Mua bán người được Liên Hợp Quốc xác định là một trong bốn loại tội phạm nguy hiểm nhất thế giới. Thời gian qua, tình hình mua bán người tiếp tục diễn biến phức tạp trên phạm vi toàn cầu với thủ đoạn ngày càng tinh vi, gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Trước đây, các đối tượng tội phạm mua bán người phải trực tiếp về các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng cao... để tìm kiếm “con mồi” và tìm cách đưa ra thành thị bán vào nhà hàng, quán karaoke, cà phê trá hình hoặc massage ở các khu du lịch, khu công nghiệp hoặc ven tuyến quốc lộ để tổ chức hoạt động mại dâm, cưỡng bức lao động trên tàu cá hoạt động trên biển... hoặc bán sang nước ngoài. Ngày nay, công nghệ phát triển, các đối tượng chỉ cần ngồi tại một vị trí, sử dụng mạng xã hội Zalo, Facebook… để kết nối, dụ dỗ đưa người ra nước ngoài hoặc trao đổi, mua bán nạn nhân ngay trong nội địa. Theo thống kê chưa đầy đủ, đối tượng lừa bán nạn nhân chủ yếu là mua bán người ra nước ngoài (chiếm khoảng trên 80% số vụ mua bán người), tập trung chủ yếu qua các tuyến biên giới trên đất liền giữa Việt Nam với Trung Quốc, Campuchia, Lào...
Báo cáo của Bộ Công an cho thấy[1], trong 05 năm (giai đoạn 01/01/2018 - 31/12/2022), cả nước đã phát hiện 394 vụ với 837 đối tượng vi phạm pháp luật và tội phạm về mua bán người, trong đó, xử lý hình sự 386 vụ với 808 đối tượng. Cơ quan có thẩm quyền của Bộ Quốc phòng đã khởi tố và chuyển sang cơ quan điều tra có thẩm quyền 54 vụ với 68 đối tượng. Đây là loại tội phạm có độ ẩn cao, xảy ra ở hầu hết các địa phương, trong đó tập trung ở một số tỉnh có đường biên giới với các nước láng giềng, nhất là ở vùng núi phía Bắc. Nếu như trong giai đoạn trước đây, từ 2012 - 2020, mua bán người chủ yếu là mua bán người ra nước ngoài (chiếm trên 85% số vụ) thì thời gian gần đây xuất hiện ngày càng nhiều vụ mua bán người ở trong nước (riêng năm 2022, số vụ mua bán trong nước chiếm trên 45% tổng số vụ)[2].
Số vụ phạm tội có chiều hướng gia tăng hàng năm. Đặc biệt, thời gian vừa qua, đã xuất hiện tình trạng mua bán thai nhi, mua bán nam giới để cưỡng bức lao động trên tàu cá. Ở một số nơi, nổi lên tình trạng mua bán trẻ sơ sinh “núp bóng” tinh vi các tổ chức mang danh thiện nguyện tự phát. Ngoài ra, nước ta không những là nơi xuất phát tội phạm nguồn mà còn là địa bàn trung chuyển mua bán người từ một số nước trong khu vực đi nước thứ ba.
Nạn nhân của tội phạm mua bán người có 73% là phụ nữ, gần đây mua bán nam giới có xu hướng gia tăng. Đối tượng phạm tội là người trên 18 tuổi chiếm 92,3%; đặc biệt, 11,4% đối tượng phạm tội chính là nạn nhân của các vụ mua bán trước đó; 6,3% đối tượng phạm tội là người thân thích với bị hại. Mục đích phạm tội được xác định như để bóc lột tình dục, để cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể hay vì mục đích vô nhân đạo khác. Các thủ đoạn phổ biến hiện nay là lợi dụng môi giới hôn nhân, lợi dụng việc môi giới đưa người đi lao động ở nước ngoài; nhận làm con nuôi; mua bán bộ phận cơ thể người “núp bóng” hình thức hiến tạng người.
Những con số này đã cho thấy, mặc dù các cơ quan chức năng tăng cường đấu tranh, xử lý nhưng tội phạm mua bán người vẫn có diễn biến phức tạp. Do vậy, công tác tuyên truyền, nhận diện phương thức, thủ đoạn lợi dụng không gian mạng nhằm tiếp cận nạn nhân của tội phạm mua bán người cần được lực lượng chức năng điều tra, làm rõ để có biện pháp tuyên truyền tới mỗi người dân có kiến thức, kỹ năng tự bảo vệ mình trước cạm bẫy của tội phạm này, nhất là trong thời đại công nghệ thông tin phát triển như hiện nay.
2. Một số bất cập của pháp luật hiện hành về phòng, chống tội phạm mua bán người
Việt Nam đã gia nhập Công ước về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia từ ngày 08/6/2012, Nghị định thư về phòng ngừa, trấn áp và trừng trị việc buôn bán người đặc biệt là phụ nữ và trẻ em từ ngày 29/12/2011. Ngày 13/12/2016, Chủ tịch nước đã ký Quyết định số 2674/2016/QĐ-CTN phê chuẩn Công ước ASEAN về phòng, chống mua bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em (ACTIP), chính thức có hiệu lực đối với Việt Nam từ ngày 08/3/2017. Việc phê chuẩn Công ước góp phần thể hiện vai trò tích cực, chủ động và khẳng định cam kết của Việt Nam cũng như khu vực ASEAN trong nỗ lực tăng cường hợp tác phòng, chống hành vi mua bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em; đồng thời, góp phần vào việc triển khai Tuyên bố về tầm nhìn Cộng đồng ASEAN năm 2025 và Kế hoạch hành động Cộng đồng ASEAN giai đoạn 2015 - 2025. Việc chính thức trở thành thành viên Công ước ACTIP không chỉ có tác động tích cực đối với Việt Nam mà còn mang lại nhiều lợi ích, góp phần khẳng định vị thế, uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới. Ngoài ra, Việt Nam cũng đã tham gia hầu hết các công ước quốc tế cơ bản về quyền con người và luật nhân đạo quốc tế, luôn nghiêm túc trong thực thi trách nhiệm, nghĩa vụ của một quốc gia thành viên, đặc biệt là nghĩa vụ nội luật hóa quy định của các công ước đó.
Bên cạnh việc ký kết các điều ước quốc tế về phòng, chống tội phạm mua bán người, Việt Nam đã ban hành Luật Phòng, chống mua bán người năm 2011. Để triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013, Nhà nước ta đã ban hành nhiều bộ luật, luật có liên quan đến công tác phòng, chống mua bán người như: Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự năm 2015), Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017… Bên cạnh đó còn có Nghị định số 09/2013/NĐ-CP ngày 11/01/2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Phòng, chống mua bán người; Thông tư số 35/2013/TT-BLĐTBXH ngày 30/12/2013 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 09/2013/NĐ-CP; Nghị định số 62/2012/NĐ-CP ngày 13/8/2012 của Chính phủ quy định căn cứ xác định nạn nhân bị mua bán và bảo vệ an toàn cho nạn nhân, người thân thích của họ; Thông tư liên tịch số 01/2014/TTLT-BCA-BQP-BLĐTBXH-BNG ngày 10/02/2014 của Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Bộ trưởng Bộ Ngoại giao hướng dẫn trình tự, thủ tục và quan hệ phối hợp trong việc xác minh, xác định, tiếp nhận và trao trả nạn nhân bị mua bán.
Ngoài ra, nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan đến lĩnh vực này như: Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Luật Trẻ em năm 2016; Bộ luật Lao động năm 2019; Luật Bình đẳng giới năm 2006. Tiếp theo là các văn bản quy phạm pháp luật quy định về phòng ngừa mua bán người trong một số lĩnh vực dễ bị lợi dụng để mua bán người như: Luật Nuôi con nuôi năm 2010; Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng năm 2020; Pháp lệnh Phòng, chống mại dâm năm 2003 (lĩnh vực quản lý các hoạt động kinh doanh, dịch vụ dễ bị lợi dụng để hoạt động mại dâm). Về kiểm soát xuất cảnh, nhập cảnh, vận chuyển thương mại qua biên giới và cư trú tại Việt Nam, các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan như: Luật Biên giới quốc gia năm 2003; Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam năm 2014; Nghị định số 136/2007/NĐ-CP ngày 17/8/2007 của Chính phủ được sửa đổi, bổ sung bằng Nghị định số 94/2015/NĐ-CP ngày 16/10/2015 của Chính phủ về xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam; Nghị định số 161/2003/NĐ-CP ngày 18/12/2003 của Chính phủ về quy chế khu vực biên giới biển.
Đặc biệt, Bộ luật Hình sự năm 2015 đã xác định phạm vi phạm tội mua bán người/mua bán người dưới 16 tuổi tại các điều 150, 151. Cụ thể, khoản 1 Điều 150 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định 03 loại hành vi mua bán người:
- Chuyển giao hoặc tiếp nhận người để giao, nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác;
- Chuyển giao hoặc tiếp nhận người để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác;
- Tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người khác để thực hiện hành vi quy định tại điểm a hoặc điểm b khoản này.
Nhìn chung, hệ thống pháp luật về phòng, chống mua bán người nói trên đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng trong công tác phòng ngừa, phát hiện, xử lý tội phạm mua bán người trong những năm qua. Tuy nhiên, qua thực hiện pháp luật về mua bán người có những khó khăn, vướng mắc, cụ thể:
Thứ nhất, Luật Phòng, chống mua bán người năm 2011 chưa có quy định về chi phí phiên dịch cho nạn nhân là người nước ngoài, nạn nhân là người dân tộc thiểu số trong quá trình tiếp nhận nạn nhân, lấy lời khai hoặc trong hỗ trợ nạn nhân lưu trú tại cơ sở hỗ trợ nạn nhân, cơ sở bảo trợ xã hội. Khoản 2 Điều 5 Luật này mới chỉ quy định có chính sách: “Khuyến khích cơ quan, tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước tham gia, hợp tác, tài trợ cho hoạt động phòng, chống mua bán người và hỗ trợ nạn nhân; khuyến khích cá nhân, tổ chức trong nước thành lập cơ sở hỗ trợ nạn nhân theo quy định của pháp luật”. Thực tiễn hiện nay, những người đang trong quá trình xác định là nạn nhân chưa có quy định để hưởng các chế độ, chính sách. Trong thời gian chờ xác minh là nạn nhân cũng cần được hưởng một số chế độ thiết yếu, thực tế các cơ quan chức năng đã phải tổ chức hỗ trợ những vấn đề thiết yếu cơ bản như ăn, mặc, chi phí đi lại, y tế… Nhưng khi xác minh không đủ điều kiện xác định là nạn nhân dẫn đến khó khăn về chi trả kinh phí đã được thực hiện.
Thứ hai, chế độ hỗ trợ nạn nhân chưa phù hợp với thực tiễn như: Chỉ quy định nạn nhân được hỗ trợ về tâm lý trong thời gian cư trú tại cơ sở bảo trợ xã hội, cơ sở hỗ trợ nạn nhân, trong khi nhiều nạn nhân thường trở về với những sang chấn về mặt tâm lý, hoảng loạn, lo lắng bị trả thù sau khi cung cấp lời khai cho Công an, Biên phòng hoặc khi trở về địa phương bị kỳ thị, xa lánh cũng rất cần được hỗ trợ tâm lý; chỉ có nạn nhân thuộc hộ nghèo mới được xem xét hỗ trợ văn hóa, học nghề, trợ cấp khó khăn ban đầu; mức chi hỗ trợ khó khăn ban đầu cho nạn nhân còn thấp, chưa đảm bảo cuộc sống khi về địa phương hòa nhập cộng đồng…
Thứ ba, Bộ luật Hình sự năm 2015 là một bước tiến mới trong quá trình lập pháp khi lần đầu tiên quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại. Tuy nhiên, các nhà làm luật hạn chế pháp nhân thương mại, chỉ chịu trách nhiệm hình sự về 33 tội phạm cụ thể được quy định tại Điều 76 Bộ luật Hình sự năm 2015 như tội phạm được quy định tại các điều 188, 189, 190, 191, 192, 193, 194, 195, 196, 200, 203, 209, 210, 211, 213, 216, 217, 225, 226, 227, 232, 234, 235, 237, 238, 239, 242, 243, 244, 245, 246, 300 và 324 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Hiện nay, với tình hình tội phạm mua bán người diễn ra ngày càng tinh vi, có tổ chức, không ít những tội phạm núp bóng dưới hình thức pháp nhân thương mại để thực hiện hành vi mua bán người xuyên quốc gia nhằm che mắt các cơ quan tiến hành tố tụng.
Thứ tư, về tình tiết định khung tăng nặng là hậu quả của việc thực hiện hành vi mua bán người đối với nạn nhân “gây rối loạn tâm thần và hành vi” tại điểm c khoản 2, điểm c khoản 3 Điều 150 Bộ luật Hình sự năm 2015, hiện nay việc vận dụng vào thực tế còn nhiều cách hiểu khác nhau, chưa thống nhất. Nghị quyết số 02/2019/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 150 về tội mua bán người và Điều 151 về tội mua bán người dưới 16 tuổi của Bộ luật Hình sự, đã hướng dẫn cơ bản đầy đủ về các tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự nhưng vẫn chưa hướng dẫn về tình tiết “gây rối loạn tâm thần và hành vi” là như thế nào.
Thứ năm, về tình tiết “bóc lột tình dục”, “cưỡng bức lao động” và “lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 150 Bộ luật Hình sự năm 2015, điểm b khoản 3 Điều 150 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định tình tiết định khung tăng nặng “đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân” nhưng trong điều luật lại không thấy quy định tình tiết định khung tăng nặng “đã bóc lột tình dục” và “đã cưỡng bức lao động” là không thống nhất.
Thứ sáu, hiện nay xuất hiện hành vi mới là mua bán thai nhi trong bụng mẹ[3]. Việc mua bán thai nhi bắt đầu diễn ra từ thời điểm đang mang thai đến khi đứa trẻ chưa chào đời nên chưa có hậu quả xảy ra dẫn tới khó khăn trong công tác xử lý. Theo pháp luật hình sự nước ta hiện nay thì chỉ được coi là con người và có quyền công dân khi mà đứa trẻ được sinh ra, còn khi vẫn đang còn là bào thai trong bụng mẹ thì chưa thể coi là con người, chưa là đối tượng của hành vi phạm tội, cho nên cơ quan chức năng không có căn cứ pháp lý để xử lý hành vi mua bán thai nhi. Trung tá Đào Trung Hiếu, Chuyên gia tội phạm học (Bộ Công an) cho rằng, xét dưới góc độ pháp luật thì hành vi của người mẹ ra nước ngoài sinh con rồi bán có dấu hiệu của tội phạm mua bán người. Tuy nhiên trên thực tế, Việt Nam chưa khởi tố được người mẹ nào bán thai nhi như vậy. Ngoài lý do vì nhân đạo thì nguyên nhân khiến cơ quan chức năng chưa xử lý được là vì luật pháp của nước ta chưa quy định về hành vi mua bán bào thai[4]. Bộ luật Hình sự năm 2015 cũng chưa có quy định nào về hành vi mua bán thai nhi trong bụng mẹ để làm cơ sở, căn cứ để xử lý trách nhiệm hình sự.
Thứ bảy, khoản 4 Điều 150 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt quản chế, cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Hình phạt bổ sung là hình phạt tiền được quy định như trên đang ở mức thấp vì “lợi nhuận” thu được từ hành vi mua bán người là rất lớn, cơ quan tiến hành tố tụng rất khó có thể chứng minh và tịch thu được.
3. Một số kiến nghị
Xuất phát từ thực tiễn khó khăn, vướng mắc trong quy định pháp luật về xử lý các hành vi vi phạm mua bán người như đã phân tích, làm rõ phần trên, tác giả đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật đối với hành vi này như sau:
Một là, Bộ luật Hình sự năm 2015 cần bổ sung chủ thể chịu trách nhiệm hình sự là pháp nhân thương mại đối với tội mua bán người nhằm đáp ứng được thực tiễn tình hình phạm tội có tổ chức chặt chẽ, đa quốc gia hiện nay.
Hai là, đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền sớm ban hành hướng dẫn tình tiết “gây rối loạn tâm thần và hành vi” để các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng thống nhất trong việc xử lý. Cần bổ sung tình tiết định khung tăng nặng “đã bóc lột tình dục” và “đã cưỡng bức lao động” để đảm bảo thống nhất trong điều luật.
Ba là, cần bổ sung loại tội mới về hành vi mua bán thai nhi đang trong bụng mẹ để làm cơ sở cho việc xử lý trách nhiệm hình sự trước tình hình mua bán diễn ra ngày càng nhiều và tinh vi như hiện nay.
Bốn là, cần sửa khoản 4 Điều 150 Bộ luật Hình sự năm 2015 về hình phạt bổ sung là hình phạt tiền, nâng mức xử phạt từ 20 triệu đồng đến 100 triệu đồng thành từ 100 triệu đồng đến 300 triệu đồng để đảm bảo tính răn đe, phù hợp với lợi ích bất chính từ hành vi mua bán người mang lại cho người phạm tội. Cụ thể hóa và ban hành các văn bản hướng dẫn các quy định mới trong Bộ luật Hình sự năm 2015.
Năm là, từ thực tiễn tâm lý nạn nhân không muốn thân phận, quá khứ của mình bị nhiều người biết đến, nhằm bảo vệ tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của nạn nhân, cơ quan Tòa án có thể xem xét, quyết định việc xét xử kín đối với vụ án mua bán người theo đề nghị của phía nạn nhân, đồng thời có những quy định về hỗ trợ các nhu cầu thiết yếu và chi phí đi lại; hỗ trợ y tế; tâm lý; trợ giúp pháp lý; điều kiện học tập, hướng nghiệp; trợ cấp khó khăn ban đầu, hỗ trợ vay vốn cho nạn nhân. Hiện nay, tại Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định về 05 nhóm biện pháp chính bảo vệ nạn nhân trong quá trình tố tụng, trong đó cũng đề cập đến việc giữ bí mật các thông tin liên quan đến nạn nhân. Tuy vậy, cần phải có các văn bản hướng dẫn thi hành theo hướng cụ thể và hạn chế các thủ tục không cần thiết. Bên cạnh đó, cần có quy định về chi phí phiên dịch cho nạn nhân là người nước ngoài, nạn nhân là người dân tộc thiểu số trong quá trình tiếp nhận nạn nhân, lấy lời khai.
Sáu là, bên cạnh hoàn thiện sửa đổi, bổ sung Luật Phòng, chống mua bán người năm 2011, lực lượng chức năng cần tăng cường phối hợp, đẩy mạnh hợp tác quốc tế, tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về phòng, chống mua bán người; chú trọng tuyên truyền, phổ biến về tình hình tội phạm, nguy cơ, phương thức, thủ đoạn tội phạm mua bán người thường sử dụng; tập trung vào các đối tượng có nguy cơ bị mua bán với phương pháp phù hợp với từng đối tượng, lứa tuổi, phong tục, tập quán trên các phương tiện thông tin đại chúng và trực tiếp tại cộng đồng với những hình thức, biện pháp phong phú, đa dạng, đặc biệt là hưởng ứng “Ngày toàn dân phòng, chống mua bán người - 30/7”.
Thiếu tá, ThS. Tô Hoài Sơn
Phòng Quản lý đào tạo và Bồi dưỡng nâng cao, Học viện Cảnh sát nhân dân
[1]. Xem: Bộ Công an, Báo cáo tổng kết công tác phòng chống tội phạm mua bán người giai đoạn 01/01/2018 - 31/12/2022, Hà Nội.
[2]. Https://daibieunhandan.vn/xay-dung-luat/hoan-thien-phap-luat-ve-phong-chong-mua-ban-nguoi-i328476/.
[3]. Xem thêm: Https://plo.vn/xac-dinh-toi-danh-the-nao-voi-truong-hop-mua-ban-thai-nhi-post741101.html, truy cập ngày 01/10/2023.
[4]. Xem: Https://vov2.vov.vn/phap-luat/khi-thai-nhi-bi-mua-ban-nhu-hang-hoa-vi-sao-kho-xu-ly-25967.vov2, truy cập ngày 30/9/2023.
(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 1 (Số 392), tháng 11/2023)