Tóm tắt: Bài viết này khái quát các khía cạnh lý luận và thực tiễn thi hành pháp luật về quyền biểu quyết của cổ đông, từ đó đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện các quy định hiện hành về quyền này.
Abstract: This article outlines the theoretical aspects and the practice of law implementation of the shareholder voting right, thereby making some recommendations to improve the current regulations on this right.
1. Một số vấn đề lý luận về quyền biểu quyết của cổ đông trong công ty cổ phần
Biểu quyết là việc thể hiện ý chí của các chủ thể đồng ý hoặc không đồng ý khi quyết định một vấn đề nào đó trong công ty thông qua số phiếu nhất định. Trong công ty cổ phần, quyền biểu quyết là quyền cơ bản của cổ đông, là một quyền lợi “gắn liền cổ đông với hoạt động của công ty, có thể là việc lựa chọn quản trị viên, bỏ phiếu về việc chia lãi hoặc mọi thông tin về công việc của công ty”[1]. Khi thực hiện biểu quyết, “cổ đông có thể đưa ra ý nguyện của mình về việc quản lý kinh doanh và phát triển công ty vào các quyết sách công ty để các quyết sách công ty là một sự thể hiện ý chí của cổ đông”[2].
Quyền biểu quyết là quyền cá nhân quan trọng nhất của cổ đông, quyền này cho phép cổ đông tham gia vào các quyết định của công ty[3] và không tách rời khỏi cổ phần, trong các cuộc họp của Đại hội đồng cổ đông (ĐHĐCĐ), “cổ đông có nghĩa vụ biểu quyết vì lợi ích của công ty”[4]. Mỗi cổ phần phổ thông có một phiếu biểu quyết.
Như vậy, quyền biểu quyết của cổ đông là quyền bỏ phiếu tán thành hoặc phản đối với những vấn đề thuộc thẩm quyền của ĐHĐCĐ trong công ty cổ phần theo tỷ lệ cổ phần sở hữu.
Quyền biểu quyết của cổ đông có một số đặc điểm cơ bản như sau:
Thứ nhất, quyền biểu quyết của cổ đông là quyền gắn liền với cổ phần và tỷ lệ biểu quyết được xác định trên tỷ lệ sở hữu cổ phần.
Quyền biểu quyết là quyền riêng của cổ đông, gắn liền với tư cách cổ đông. Cổ đông có thể không tham dự ĐHĐCĐ, không biểu quyết nhưng không thể từ bỏ, hoặc chuyển nhượng cho người khác được. Cổ đông có thể ủy quyền cho người khác để thực hiện quyền biểu quyết tại ĐHĐCĐ. Mọi cổ đông, trừ những cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi cổ tức hoặc ưu đãi hoàn lại phải được tham dự và biểu quyết tại các cuộc họp ĐHĐCĐ. Về nguyên tắc, quyền bỏ phiếu là bình đẳng, tất cả các cổ đông cùng loại cần được đối xử bình đẳng như nhau. Tuy nhiên, sự bình đẳng là không hoàn toàn bởi các cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết có tỷ lệ phiếu cao hơn (tỷ lệ cụ thể theo quy định của điều lệ). Khi có “bất cứ thay đổi nào về quyền biểu quyết phải được sự thông qua của các cổ đông sở hữu loại cổ phiếu bị ảnh hưởng bất lợi bởi sự thay đổi đó”[5].
Thứ hai, quyền biểu quyết không phải là quyền tài sản.
Về mặt lý luận, quyền dự họp và biểu quyết của cổ đông không phải là quyền tài sản, không thể chuyển nhượng. Các quyền này cũng “không thể được cầm cố, thế chấp, tặng cho hoặc định đoạt dưới hình thức khác và đây cũng là thực tiễn trên thị trường”[6] và gắn liền cổ đông với quá trình hoạt động của công ty. Theo pháp luật của Pháp thì “việc mua, bán quyền bỏ phiếu đều bị trừng trị về mặt hình sự”[7].
Thứ ba, phạm vi thực hiện quyền biểu quyết tại ĐHĐCĐ.
Chỉ có cổ đông sở hữu cổ phần phổ thông hoặc cổ phần ưu đãi biểu quyết mới có quyền biểu quyết tại cuộc họp ĐHĐCĐ. Cổ đông chỉ bị hạn chế biểu quyết theo quy định của pháp luật và trong trường hợp “cổ đông có lợi ích liên quan đến các bên trong hợp đồng, giao dịch không có quyền biểu quyết”[8]. Trong khi đó, các cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi cổ tức và ưu đãi hoàn lại không có quyền biểu quyết tại ĐHĐCĐ. Phạm vi quyền biểu quyết của cổ đông áp dụng cho các quyết định được thảo luận và thông qua tại ĐHĐCĐ.
2. Những khía cạnh pháp lý của cơ chế về quyền biểu quyết của cổ đông
Cổ đông có thể tham gia vào quá trình ra quyết định của công ty thông qua thực hiện quyền biểu quyết tại cuộc họp ĐHĐCĐ theo nguyên tắc đa số. Các vấn đề quan trọng được biểu quyết tại cuộc họp ĐHĐCĐ bao gồm: (i) Sửa đổi điều lệ công ty; (ii) Chiến lược phát triển của công ty; (iii) Phát hành thêm cổ phần; (iv) Bầu, miễn nhiệm hoặc bãi nhiệm thành viên Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát; (v) Các nghiệp vụ bất thường như các khoản đầu tư hoặc thanh lý tài sản có giá trị tương đương hoặc trên 50% tổng giá trị tài sản của công ty; (vi) Phê duyệt mức cổ tức hàng năm của từng loại cổ phần và thông qua báo cáo tài chính hàng năm; (vii) Tổ chức lại hoặc giải thể công ty. Để bảo đảm quyền này, pháp luật quy định về trình tự, thủ tục thông báo và triệu tập ĐHĐCĐ, cách thức biểu quyết hoặc lấy ý kiến của cổ đông tại cuộc họp và ngoài cuộc họp, vấn đề ủy quyền dự họp và ủy quyền biểu quyết, vấn đề bảo vệ quyền lợi của cổ đông nhỏ (thiểu số).
Cơ chế biểu quyết của cổ đông trong công ty cổ phần được thể hiện ở các khía cạnh như sau:
Thứ nhất, về quyền biểu quyết của các loại cổ phần.
Các cổ đông sở hữu cổ phần phổ thông và cổ phần ưu đãi biểu quyết đều có quyền dự họp và biểu quyết tại ĐHĐCĐ. Cổ phần ưu đãi biểu quyết là cổ phần phổ thông có nhiều hơn phiếu biểu quyết so với cổ phần phổ thông khác (số phiếu biểu quyết của một cổ phần ưu đãi biểu quyết do điều lệ quy định). Chỉ có tổ chức được Chính phủ ủy quyền và cổ đông sáng lập được quyền nắm giữ cổ phần ưu đãi biểu quyết. Ưu đãi biểu quyết của cổ đông sáng lập có hiệu lực trong 03 năm, kể từ ngày công ty được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Quyền biểu quyết và thời hạn ưu đãi biểu quyết đối với cổ phần ưu đãi biểu quyết do tổ chức được Chính phủ ủy quyền nắm giữ được quy định tại điều lệ công ty. Sau thời hạn ưu đãi biểu quyết, cổ phần ưu đãi biểu quyết chuyển đổi thành cổ phần phổ thông. Đồng thời, cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết không được chuyển nhượng cổ phần đó cho người khác, trừ trường hợp chuyển nhượng theo bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật hoặc thừa kế.
Các cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi hoàn lại, cổ tức hoặc loại ưu đãi khác về nguyên tắc không có quyền biểu quyết, dự họp ĐHĐCĐ, đề cử người vào Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát. Trừ trường hợp, có quyền tham dự và biểu quyết về vấn đề tương ứng như cổ phần ưu đãi có thể chuyển đổi thành cổ phần phổ thông và nghị quyết ĐHĐCĐ về nội dung làm thay đổi bất lợi quyền và nghĩa vụ của cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi.
Thứ hai, điều kiện để cổ đông thực hiện quyền biểu quyết.
Cuộc họp ĐHĐCĐ được tiến hành khi có số cổ đông dự họp đại diện trên 50% tổng số phiếu biểu quyết, tỷ lệ cụ thể do điều lệ công ty quy định. Trường hợp cuộc họp lần thứ nhất không đủ điều kiện tiến hành thì thông báo mời họp lần thứ hai phải được gửi trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày dự định họp lần thứ nhất, nếu điều lệ công ty không quy định khác. Cuộc họp ĐHĐCĐ lần thứ hai được tiến hành khi có số cổ đông dự họp đại diện từ 33% tổng số phiếu biểu quyết trở lên, tỷ lệ cụ thể do điều lệ công ty quy định. Trường hợp cuộc họp lần thứ hai không đủ điều kiện tiến hành thì thông báo mời họp lần thứ ba phải được gửi trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày dự định họp lần thứ hai, nếu điều lệ công ty không quy định khác. Cuộc họp ĐHĐCĐ lần thứ ba được tiến hành không phụ thuộc vào tổng số phiếu biểu quyết của các cổ đông dự họp.
Trong công ty cổ phần, các cổ đông thực hiện quyền tham dự, phát biểu trong cuộc họp ĐHĐCĐ và thực hiện quyền biểu quyết trực tiếp hoặc thông qua người đại diện theo ủy quyền hoặc hình thức khác do điều lệ công ty, pháp luật quy định.
Thứ ba, hình thức thực hiện quyền biểu quyết.
Hình thức biểu quyết của cổ đông trực tiếp tại cuộc họp bằng cách giơ tay hoặc phiếu kín, hoặc ấn nút phương tiện điện tử hoặc lấy ý kiến bằng văn bản. Cổ đông được coi là tham dự và biểu quyết tại cuộc họp ĐHĐCĐ trong trường hợp sau đây: (i) Tham dự và biểu quyết trực tiếp tại cuộc họp; (ii) Ủy quyền cho cá nhân, tổ chức khác tham dự và biểu quyết tại cuộc họp; (iii) Tham dự và biểu quyết thông qua hội nghị trực tuyến, bỏ phiếu điện tử hoặc hình thức điện tử khác; (iv) Gửi phiếu biểu quyết đến cuộc họp thông qua gửi thư, fax, thư điện tử; (v) Gửi phiếu biểu quyết bằng phương tiện khác theo quy định của điều lệ.
Trường hợp điều lệ không có quy định khác thì nghị quyết ĐHĐCĐ về các vấn đề sau đây phải được thông qua bằng hình thức biểu quyết tại cuộc họp: (i) Sửa đổi, bổ sung nội dung của điều lệ công ty; (ii) Định hướng phát triển công ty; (iii) Loại cổ phần và tổng số cổ phần của từng loại; (iv) Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm thành viên Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát; (v) Quyết định đầu tư hoặc bán số tài sản có giá trị từ 35% tổng giá trị tài sản trở lên được ghi trong báo cáo tài chính gần nhất của công ty, trừ trường hợp điều lệ công ty quy định tỷ lệ hoặc giá trị khác; (vi) Thông qua báo cáo tài chính hằng năm; (vii) Tổ chức lại, giải thể công ty.
Thứ tư, tỷ lệ biểu quyết tại cuộc họp ĐHĐCĐ.
Trong công ty cổ phần, ĐHĐCĐ gồm tất cả cổ đông có quyền biểu quyết, là cơ quan quyết định cao nhất, họp thường niên mỗi năm một lần. Ngoài cuộc họp thường niên, ĐHĐCĐ có thể họp bất thường và phải họp thường niên trong thời hạn 04 tháng, kể từ ngày kết thúc năm tài chính. Các cổ đông thực hiện quyền biểu quyết của mình trong cuộc họp ĐHĐCĐ để thông qua hoặc không thông qua các vấn đề của công ty thuộc thẩm quyền của ĐHĐCĐ.
Theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2020, hầu hết các vấn đề được thông qua khi có trên 50% phiếu biểu quyết tán thành các cổ đông, trừ trường hợp yêu cầu 65% phiếu biểu quyết và các trường hợp bầu Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát cần bầu dồn phiếu như: (i) Loại cổ phần và tổng số cổ phần của từng loại; (ii) Thay đổi ngành, nghề và lĩnh vực kinh doanh; (iii) Thay đổi cơ cấu tổ chức quản lý; (iv) Dự án đầu tư hoặc bán tài sản có giá trị bằng hoặc lớn hơn 35% tổng giá trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính gần nhất, hoặc tỷ lệ, giá trị khác nhỏ hơn do điều lệ công ty quy định; (v) Tổ chức lại, giải thể công ty; (vi) Các vấn đề khác do điều lệ công ty quy định.
Thứ năm, hệ quả của việc cổ đông biểu quyết.
Khi có 100% tổng cổ đông có quyền biểu quyết thông qua nghị quyết ĐHĐCĐ thì nghị quyết đó là hợp pháp và có hiệu lực ngay cả khi trình tự, thủ tục triệu tập họp và thông qua nghị quyết đó vi phạm[9] các quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2020 và điều lệ công ty. Trong trường hợp này, cổ đông không có quyền khởi kiện yêu cầu hủy bỏ nghị quyết ĐHĐCĐ theo quy định của Điều 151 Luật Doanh nghiệp năm 2020.
Trong trường hợp, cổ đông đã biểu quyết không thông qua nghị quyết của ĐHĐCĐ về việc tổ chức lại công ty hoặc thay đổi quyền, nghĩa vụ của cổ đông quy định tại điều lệ công ty thì cổ đông có quyền yêu cầu công ty mua lại cổ phần của mình. Công ty phải mua lại cổ phần của cổ đông theo giá thị trường hoặc giá được tính theo nguyên tắc quy định tại điều lệ trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu.
Thứ sáu, ủy quyền biểu quyết.
Cổ đông tham dự, phát biểu trong cuộc họp ĐHĐCĐ và thực hiện quyền biểu quyết trực tiếp hoặc thông qua người đại diện theo ủy quyền hoặc hình thức khác do điều lệ, pháp luật quy định. Việc cổ đông ủy quyền cho chủ thể khác đại diện dự họp ĐHĐCĐ phải lập thành văn bản theo quy định của pháp luật về dân sự và phải nêu rõ tên cá nhân, tổ chức được ủy quyền và số lượng cổ phần được ủy quyền. Cá nhân, tổ chức được ủy quyền dự họp ĐHĐCĐ phải xuất trình văn bản ủy quyền khi đăng ký dự họp trước khi vào phòng họp. Như vậy, cổ đông có thể ủy quyền cho nhiều người thay mặt nhân danh mình tham dự và thực hiện quyền biểu quyết tại cuộc họp ĐHĐCĐ.
Thứ bảy, thỏa thuận gộp quyền biểu quyết.
Các cổ đông nắm giữ cổ phần có quyền biểu quyết trong thời hạn liên tục ít nhất sáu (06) tháng tính đến thời điểm chốt danh sách cổ đông dự họp có quyền “gộp” số quyền biểu quyết để đề cử các ứng viên Hội đồng quản trị. “Cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu từ 10% tổng số cổ phần phổ thông trở lên hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn theo quy định tại điều lệ công ty có quyền đề cử người vào Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát... Các cổ đông phổ thông hợp thành nhóm để đề cử người vào Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát phải thông báo về việc họp nhóm cho các cổ đông dự họp biết trước khi khai mạc ĐHĐCĐ”[10]. Việc đề cử ứng viên Hội đồng quản trị mà các cổ đông sau khi gộp số quyền biểu quyết có quyền đề cử phải tuân thủ các quy định của pháp luật và điều lệ công ty. Quy định này giúp các cổ đông có căn cứ pháp lý rõ ràng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, tránh những hành vi xâm hại trong hoạt động tổ chức quản lý công ty.
3. Thực trạng pháp luật về quyền biểu quyết của cổ đông và kiến nghị hoàn thiện
Một là, về cơ chế bảo vệ quyền biểu quyết của cổ đông thiểu số.
Theo Luật Chứng khoán năm 2019, “cổ đông lớn là cổ đông sở hữu từ 5% trở lên số cổ phiếu có quyền biểu quyết của một tổ chức phát hành”[11], theo đó, có thể hiểu, cổ đông nhỏ hoặc cổ đông thiểu số là cổ đông sở hữu dưới 5% số cổ phiếu có quyền biểu quyết. Quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2020 về tỷ lệ biểu quyết và hình thức họp ĐHĐCĐ tạo điều kiện cho các cổ đông nhỏ phát huy vai trò trong ĐHĐCĐ khi đã giảm yêu cầu về tỷ lệ biểu quyết thông qua quyết định ĐHĐCĐ xuống 51% đối với quyết định thông thường và 65% đối với quyết định quan trọng của công ty. Tuy vậy, việc giảm tỷ lệ biểu quyết không thể hiện được mục đích bảo vệ cổ đông nhỏ trước cổ đông lớn, bởi chỉ cần một phiếu biểu quyết của cổ đông lớn đã quyết định được việc thông qua hay không thông qua được quyết định của ĐHĐCĐ.
Vì vậy, cơ chế pháp luật để bảo vệ cổ đông thiểu số thực hiện các quyền năng của chủ sở hữu trong việc quản lý công ty và bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình cần được tiếp tục xây dựng và hoàn thiện. Theo đó, hoàn thiện quy định về các cơ chế gộp, tập trung quyền biểu quyết của cổ đông thiểu số để đồng ý hoặc không đồng ý các vấn đề của công ty tại ĐHĐCĐ, cơ chế hạn chế quyền biểu quyết của “cổ đông lớn” nhằm tránh các quyết định lạm quyền trong các quyết định, xâm hại đến các cổ đông thiểu số.
Hai là, thiết lập cơ chế pháp luật về thỏa thuận cổ đông liên quan đến quyền biểu quyết.
Thỏa thuận cổ đông là sự thống nhất giữa hai hay nhiều cổ đông bằng văn bản hoặc hình thức tương đương về quyền của cổ đông và các vấn đề quản lý công ty. Thỏa thuận giữa các cổ đông có hiệu lực khi không trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật, không trái với điều lệ và không làm ảnh hưởng đến lợi ích của công ty, của cổ đông thiểu số. Pháp luật cần thừa nhận thỏa thuận cổ đông liên quan tới quyền biểu quyết như gộp quyền biểu quyết nhằm cùng nhau thể hiện ý chí của mình về các vấn đề của công ty. Đồng thời, Luật Doanh nghiệp cũng cần thiết dự liệu các trường hợp về “lạm dụng đa số” của cổ đông lớn và “lạm dụng thiểu số” của các cổ đông thiểu số trong quá trình thực hiện quyền biểu quyết của mình đối với các vấn đề của công ty để đạt được mục đích riêng xâm hại đến lợi ích của công ty, của các cổ đông khác.
Ba là, về chủ thể sở hữu cổ phần có quyền ưu đãi biểu quyết.
Theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2020 thì “chỉ có tổ chức được Chính phủ ủy quyền và cổ đông sáng lập được quyền nắm giữ cổ phần ưu đãi biểu quyết”. Nếu như việc cổ đông sáng lập được sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết được coi như một ưu đãi đặc biệt đối với những người đã góp công sức thành lập nên công ty thì việc “tổ chức được Chính phủ ủy quyền sở hữu cổ phần ưu đãi của công ty đến nay vẫn có nhiều câu hỏi đặt ra cho quy định này như: Chính phủ dựa trên cơ sở, lý do gì mà có thể ủy quyền cho một tổ chức được hưởng quyền ưu đãi biểu quyết? Tổ chức được Chính phủ ủy quyền có thể là những tổ chức gì? Mục đích của quy định như vậy là gì? Quy định này sẽ tạo điều kiện cho cơ quan hành chính can thiệp vào tự chủ kinh doanh của công ty, thật trái với mục đích của chính sách cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước”[12]. Sự không rõ ràng này đặt ra nhu cầu cần thiết phải đưa ra những hướng dẫn giải thích, áp dụng cho quy định trên và nếu quy định đó cản trở đến quyền tự chủ của công ty và môi trường pháp lý thì cần thiết phải chỉnh sửa để tạo điều kiện thuận lợi, thống nhất trong quá trình thực hiện pháp luật.
Bốn là, về hành vi vi phạm nghiêm trọng trình tự, thủ tục triệu tập họp và ra quyết định của ĐHĐCĐ.
Quy định của khoản 1 Điều 151 Luật Doanh nghiệp năm 2020 về trình tự, thủ tục triệu tập họp và ra quyết định của ĐHĐCĐ vi phạm nghiêm trọng quy định của Luật này và điều lệ công ty. Tuy vậy, việc sử dụng thuật ngữ “vi phạm nghiêm trọng” gây lúng túng trong quá trình áp dụng và thực thi quy định này. Bởi, Luật Doanh nghiệp năm 2020 và các văn bản hướng dẫn không có quy định nào về việc xác định như thế nào là vi phạm nghiêm trọng về trình tự, thủ tục triệu tập cuộc họp và ra quyết định của ĐHĐCĐ theo Luật Doanh nghiệp năm 2020 và điều lệ công ty.
Vì vậy, cần ban hành văn bản hướng dẫn quy định về những hành vi vi phạm nghiêm trọng Luật Doanh nghiệp năm 2020 và điều lệ công ty. Trong thực tiễn, một trong những hành vi được coi là vi phạm nghiêm trọng đó là “hành vi ngăn cản hoặc làm ảnh hưởng đến các quyền tham dự họp, quyền biểu quyết của cổ đông hoặc làm sai lệch kết quả biểu quyết, thông qua nghị quyết ĐHĐCĐ”[13]. Đây là những hành vi vi phạm trình tự, thủ tục khi thông qua các quyết định tại ĐHĐCĐ, vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp của cổ đông. Việc pháp luật quy định rõ ràng sẽ tạo cơ sở pháp lý để cổ đông thực hiện quyền yêu cầu hủy bỏ nghị quyết ĐHĐCĐ, bởi việc thông qua nghị quyết ĐHĐCĐ phải tuân thủ đúng quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2020 và điều lệ công ty để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của tất cả các cổ đông có quyền biểu quyết.
Quyền biểu quyết không phải là quyền mang tính kinh tế của cổ đông nhưng việc thực hiện quyền biểu quyết là biện pháp cần thiết để bảo đảm các quyền mang tính kinh tế của cổ đông như: Quyền được hưởng cổ tức, quyền được ưu tiên mua cổ phần mới chào bán, quyền yêu cầu công ty mua lại cổ phần, quyền được phân chia tài sản khi công ty chấm dứt hoạt động và quyền chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác. Vì vậy, các cơ chế thực hiện và bảo vệ quyền biểu quyết của cổ đông đầy đủ, hoàn thiện sẽ có ý nghĩa quan trọng trong việc phản ánh mức độ thực hiện quyền lợi của cổ đông khi sự tách biệt quyền sở hữu với quyền quản lý kinh doanh là đặc trưng mang tính bản chất của công ty cổ phần.
TS. Nguyễn Văn Lâm
Viện Kinh tế và Quản lý, Đại học Bách khoa Hà Nội
[1]. Nguyễn Văn Bình, Lê Thị Tý (1989) (dịch), Tổ chức công ty - tập 2, Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý, tr. 72.
[2]. Ngô Viễn Phú (2004), Nghiên cứu so sánh quản lý công ty cổ phần theo pháp luật Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Luận án Tiến sỹ tại Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 40 – 41.
[3]. Nguyễn Thị Thu Vân (2008), Một số vấn đề về công ty và hoàn thiện pháp luật về công ty ở Việt Nam hiện nay, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, tr. 137.
[4]. Molano-León, Ricardo (2008), Shareholders’agreement in close corporation and their enforcement in the United States of America, Vniversitas (117), tr. 219 - 252.
[5]. OECD, IFC (2004), Các nguyên tắc quản trị công ty của OECD, Hà Nội, tr. 43.
[6]. Trương Nhật Quang (2016), Pháp luật về doanh nghiệp: Các vấn đề pháp lý cơ bản, Nxb. Dân trí, tr. 273.
[7]. Nguyễn Văn Bình, Lê Thị Tý (1989) (dịch), tlđd, tr. 74.
[8]. Khoản 4 Điều 167 Luật Doanh nghiệp năm 2020.
[9]. Khoản 2 Điều 62 Luật Doanh nghiệp năm 2020.
[10]. Khoản 5 Điều 115 Luật Doanh nghiệp năm 2020.
[11]. Khoản 18 Điều 4 Luật Chứng khoán năm 2019.
[12]. Ngô Viễn Phú (2004), tlđd, tr. 44.
[13]. Trần Thăng Long, Phan Huy Lâm (2021), Bàn về một số quy định liên quan đến Đại hội đồng cổ đông theo Luật Doanh nghiệp năm 2020, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 13 (437), tháng 7/2021.
(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 1 (Số 378), tháng 4/2023)