Việc khai thác và sử dụng hợp lý, có hiệu quả nguồn tài nguyên năng lượng trong nước; đa dạng hóa phương thức đầu tư và kinh doanh trong lĩnh vực năng lượng, hình thành và phát triển thị trường năng lượng cạnh tranh lành mạnh; đẩy mạnh phát triển nguồn năng lượng mới và tái tạo, năng lượng sinh học, điện hạt nhân và các nguồn năng lượng khác là xương sống cho nền kinh tế - xã hội của đất nước, do đó việc áp dụng những cơ chế, chính sách, những biện pháp về khuyến khích, hỗ trợ cần phải được suy tính rõ ràng, có cơ sở luận chứng khách quan, phù hợp với thực tiễn, bối cảnh, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của Việt Nam. Tuy nhiên, thực tiễn chính sách, pháp luật của Việt Nam về quản lý nhà nước trong việc phát triển nguồn năng lượng trước yêu cầu phát triển bền vững ở Việt Nam còn nhiều hạn chế, khó khăn như quy định pháp luật còn thiếu, chưa điều chỉnh hết các quan hệ phát sinh trong thực tiễn; nhiều quy định của pháp luật hiện hành còn mâu thuẫn, chồng chéo; các cơ quan nhà nước, doanh nghiệp và các chủ đầu tư trong thực tiễn áp dụng các quy định này còn gặp rất nhiều vướng mắc, khó khăn cần được tháo gỡ. Điển hình còn thiếu các quy định pháp luật về thị trường năng lượng; ngoài ra an ninh năng lượng, cán cân thương mại, cán cân vãng lai và thanh toán quốc tế, dự trữ quốc gia, cân đối ngân sách chưa đủ vững chắc để đối phó khi các tình huống biến động lớn, đột xuất xảy ra. Vì vậy, cần có sự rà soát lại hệ thống chính sách, pháp luật hiện hành trong thực tiễn, phát hiện những vướng mắc, thiếu hụt, mâu thuẫn hoặc còn những hạn chế, không còn phù hợp các các chính sách, quy định đang cản trở hoặc làm giảm hiệu lực của quản lý nhà nước, cũng như cản trở sự tiếp cận, thực hiện dự án về quản lý nhà nước trong việc phát triển nguồn năng lượng trước yêu cầu phát triển bền vững ở Việt Nam hiện nay.
1. Tổng quan chính sách, quy định pháp luật về quản lý, phát triển nguồn năng lượng trước yêu cầu phát triển bền vững
Chính sách pháp luật về quản lý nhà nước trong việc phát triển nguồn năng lượng trước yêu cầu phát triển bền vững ở Việt Nam là nhiệm vụ trọng tâm, đồng thời cũng là xương sống trong nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa, điều đó đã được thể hiện rõ nét thông qua chủ trương, chính sách và cương lĩnh của Đảng, tại các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc quan trọng. Ngay sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại quốc tế (WTO) thì vấn đề này càng được Đảng, Nhà nước quan tâm nhiều hơn, được cụ thể hóa thông qua chính sách phát triển kinh tế - xã hội qua các giai đoạn và trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành TW Đảng tại Đại hội Đảng lần thứ X đã định hướng mục tiêu hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó cần phải phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại thị trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh và một trong các nhiệm vụ để thực hiện mục tiêu nêu trên là thu hẹp những lĩnh vực mà Nhà nước độc quyền kinh doanh, xóa bỏ độc quyền doanh nghiệp; tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý giá [3]. Đứng trước nhu cầu về phát triển bền vững và chỉ đạo của Đảng, trong những năm vừa qua, Chính phủ và các Bộ, nghành, địa phương đã rất quan tâm tới vấn đề này, điều đó được thể hiện trong những văn bản quy phạm pháp luật của các cấp, các ngành như Luật Điện lực, Luật Đầu tư, Luật Bảo vệ môi trường, Luật sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả, Bộ Luật hình sự và Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2050. Theo đó, Chính phủ đã đưa ra các nhóm chính sách [9]:
Thứ nhất, bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia
Ưu tiên thực hiện chính sách bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia theo hướng phát triển đồng bộ các nguồn năng lượng; khai thác và sử dụng tiết kiệm các nguồn năng lượng trong nước; giảm bớt phụ thuộc vào các sản phẩm dầu mỏ nhập khẩu; xuất nhập khẩu than hợp lý; liên kết hệ thống năng lượng trong khu vực; mở rộng kho dự trữ xăng dầu; kết hợp an ninh năng lượng với bảo đảm quốc phòng, an ninh quốc gia.
Thứ hai, giá năng lượng
Chính sách giá năng lượng được coi là một trong những chính sách đột phá; nhanh chóng xóa bỏ độc quyền, bao cấp trong cả sản xuất và tiêu dùng năng lượng. Giá năng lượng cần được xác định phù hợp với cơ chế thị trường; Nhà nước điều tiết giá năng lượng thông qua chính sách thuế và các công cụ quản lý khác.
Thứ ba, đầu tư cho phát triển các nguồn năng lượng mới và tái tạo, năng lượng sinh học, điện hạt nhân.
Ưu tiên phát triển năng lượng mới, năng lượng tái tạo, năng lượng sinh học, điện hạt nhân. Khuyến khích đầu tư ra nước ngoài để tìm kiếm nguồn năng lượng; có chính sách bảo đảm sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế tham gia vào phát triển năng lượng.
Thứ tư, sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả
Chính sách khuyến khích sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả cần xác định những yêu cầu cụ thể về tiết kiệm đối với các ngành sử dụng nhiều năng lượng; khuyến khích việc ứng dụng thiết bị, công nghệ mới tiết kiệm năng lượng.
Thứ năm, trách nhiệm bảo vệ môi trường
Chính sách bảo vệ môi trường nhằm thực hiện việc đảm bảo việc khai thác và sử dụng năng lượng với việc quản lý tốt môi trường; áp dụng các tiêu chuẩn môi trường tiên tiến hợp lý. Những chính sách trên đã được thể hiện bằng mục tiêu cụ thể.
Những mục tiêu cụ thể đã đưa ra, thể hiện rõ quyết tâm, nỗ lực của Chính phủ về lộ trình phát triển thị trường năng lượng trong từng thời kỳ, từng năm đối với các miền, từng dự án, từng loại hình đầu tư khác nhau và theo những phương án khác nhau, đảm bảo quan điểm phát triển phải gắn liền với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên năng lượng trong nước, đa dạng hóa các nguồn năng lượng sơ cấp, bảo tồn nhiên liệu và bảo đảm an ninh năng lượng Quốc gia trong thời kỳ đổi mới và tầm nhìn trong tương lai.
Có thể nói, mục tiêu cụ thể về khuyến khích phát triển đa dạng hóa các nguồn năng lượng nhằm đảm bảo phát triển bền vững trên cơ sở khai thác tối ưu mọi nguồn lực, đáp ứng nhu cầu năng lượng phục vụ đời sống nhân dân và phát triển kinh tế - xã hội, góp phần đảm bảo an ninh năng lượng đã quốc gia được định hướng rõ ràng. Tuy nhiên trên thực tế, các mục tiêu đề ra chưa đạt được kết quả tốt đẹp, nhiều dự án chậm tiến độ, tính khá thi bị hạn chế, chính sách tài chính về giá thành năng lượng, thị trường năng lượng chưa được triển khai thực hiện, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, nên chưa theo kịp so với tiến trình phát triển năng lượng trước yêu cầu phát triển bền vững trên thế giới…
2. Đánh giá những thành tựu, kết quả đã đạt được và những tồn tại đối với việc áp dụng chính sách pháp luật thực định
2.1. Những thành tựu, kết quả đạt được:
Một là, các cấp chính quyền đã ban hành nhiều quy định pháp luật nhằm tạo điều kiện để phát triển các nguồn năng lượng, đáp ứng được nhu cầu phát triển của đất nước, đứng trước yêu cầu phát triển bền vững, trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, trong đó đã trọng tâm vào các nội dung chính như sau:
- Phát triển năng lượng phải gắn liền với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và đảm bảo đi trước một bước với tốc độ cao, bền vững, đồng bộ, đi đôi với đa dạng hóa các nguồn năng lượng và công nghệ tiết kiệm năng lượng là nhiệm vụ trọng tâm trong suốt thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Phát triển năng lượng quốc gia phù hợp với xu hướng hội nhập quốc tế, sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên trong nước kết hợp với việc khai thác, sử dụng tài nguyên nước ngoài một cách hợp lý, thiết lập an ninh năng lượng quốc gia trong điều kiện mở, thực hiện liên kết hiệu quả trong khu vực và toàn cầu, gắn với giữ vững an ninh quốc gia và phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ.
- Từng bước hình thành thị trường năng lượng, đa dạng hóa sở hữu và phương thức kinh doanh, hướng tới thỏa mãn tốt nhất lợi ích người tiêu dùng. Thúc đẩy nhanh việc xóa bao cấp, xóa độc quyền, tiến đến xóa bỏ hoàn toàn việc thực hiện chính sách xã hội thông qua giá năng lượng.
- Phát triển đồng bộ và hợp lý hệ thống năng lượng: điện, dầu khí, than, năng lượng mới và tái tạo, trong đó quan tâm phát triển năng lượng sạch, ưu tiên phát triển năng lượng mới và tái tạo. Phân bố hợp lý hệ thống năng lượng theo vùng, lãnh thổ; cân đối từ khâu thăm dò, khai thác, chế biến; phát triển đồng bộ hệ thống dịch vụ và tái chế.
- Ứng dụng các thành tựu của kinh tế tri thức để nâng cao hiệu suất, hiệu quả kinh doanh năng lượng. Coi trọng đầu tư cho tiết kiệm năng lượng, giảm tỷ lệ tổn thất.
- Phát triển năng lượng gắn chặt với giữ gìn môi trường sinh thái, bảo đảm thực hiện phát triển năng lượng bền vững.
Như vậy, đứng trước bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, sức ép của sự vận động, đổi mới không ngừng của các nước trên thế giới thì Đảng và Nhà nước đã có nhiều chính sách tích cực cho công cuộc phát triển kinh tế xã hội đi đôi với việc bảo vệ môi trường, trong đó Nhà nước đã khuyến khích, hỗ trợ, cũng như có nhiều biện pháp để tạo điều kiện cho mọi thành phần trong nước và ngoài nước tham gia việc đầu tư, khai thác, sử dụng các nguồn năng lượng ở Việt Nam, từng bước hình thành thị trường năng lượng, xóa bỏ bao cấp, độc quyền tiến đến xóa bỏ hoàn toàn việc thực hiện chính sách xã hội thông qua giá năng lượng, nhưng trên cơ sở đảm bảo phát triển năng lượng gắn chặt với giữ gìn môi trường sinh thái, bảo đảm thực hiện phát triển năng lượng bền vững.
Hai là, trên cơ sở chủ trương, chính sách của Đảng thì các cấp chính quyền từ Quốc Hội, Chính phủ và các Bộ, ngành, địa phương cũng đã có sự điều hành, chỉ đạo quyết liệt trong việc hoàn thành hệ thống các quy định pháp luật để quản lý, điều hành công cuộc phát triển, đa dạng hóa các nguồn năng lượng, trước yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Điều đó, được thể hiện rõ rệt thông qua, một hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật thuộc các cấp có thẩm quyền liên tục được ban hành để điều chỉnh nhu cầu phát triển năng lượng, trong đó đặc biệt chú trọng tới việc đa dạng hóa các hình thức đầu tư vào các dự án năng lượng, đồng thời các quy định pháp luật về khuyến khích, hỗ trợ phát triển dự án năng lượng xanh, các dự án tại vùng xâu, vùng xa, hải đảo, miền núi.
Những chính sách về tài chính, thuế cũng đã được minh bạch, rõ ràng, thuận tiện cho chủ đầu tư khi tiếp cận vào thị trường năng lượng tại Việt Nam; đồng thời các cấp lãnh đạo của Nhà nước cũng đã quyết liệt trong việc tái cơ cấu các doanh nghiệp nhà nước hiện nay đang nắm giữ các nguồn năng lượng chủ chốt, đặc biệt quan trọng trong quốc gia như điện, dầu khi, than và khoáng sản, tiến tới hình thành thị trường năng lượng công khai, minh bạch, thu hút được nhiều thành phần tham gia.
2.2. Một số tồn tại, khó khăn trong quá trình thực hiện:
Một là, về thị trường năng lượng:
Hiện nay, các nguồn năng lượng sơ cấp chủ yếu tập trung tại các Tập đoàn kinh tế lớn của Nhà nước như: Tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam (Vinacomin), Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN), Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), đây là các Tập đoàn đang độc quyền nhà nước về năng lượng. Vì vậy, nhìn chung thì Việt Nam chưa có một thị trường năng lượng hoàn chỉnh và có tính cạnh tranh.
Theo Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2050, ban hành kèm theo Quyết định số 1855/QĐ-TTg ngày 27/12/2007 của Thủ tướng Chính phủ có đưa ra quan điểm phát triển là “Từng bước hình thành thị trường năng lượng, đa dạng hóa sở hữu và phương thức kinh doanh, hướng tới thỏa mãn tốt nhất lợi ích người tiêu dùng. Thúc đẩy nhanh việc xóa bao cấp, xóa độc quyền, tiến đến xóa bỏ hoàn toàn việc thực hiện chính sách xã hội thông qua giá năng lượng.”; Đồng thời, Thủ tướng Chính phủ cũng đưa ra nhóm giải pháp, trong đó có giải pháp về cơ chế tổ chức đó là thực hiện tái cơ cấu ngành năng lượng để từng bước hình thành thị trường năng lượng cạnh tranh lành mạnh trên cơ sở đảm bảo ổn định chính trị - xã hội; ban hành mới đi đôi với sửa đổi, bổ sung, hoàn chỉnh các văn bản pháp luật hiện hành để các doanh nghiệp năng lượng chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường; xóa bỏ độc quyền doanh nghiệp.
Đứng trước thực trạng nhu cầu năng lượng trong nhân dân, Chính phủ và các Bộ, ngành có liên quan đã có chủ trương đa dạng hóa các hình thức đầu tư vào các dự án nguồn năng lượng. Theo đó, các thành phần kinh tế có thể tham gia thực hiện dưới nhiều hình thức như các dự án khác nhau: BOT, BTO, BOO, PPP (Public - Private Project)…Nhưng thực tế cho thấy, đây chỉ là giải pháp mang tính chất tạm thời, để ổn định nhu cầu năng lượng trước mắt, mà chưa phương án tổng thể để xóa bỏ độc quyền nhà nước, tạo dựng thị trường năng lượng có tính cạnh tranh. Nguyên nhân chủ yếu, do các Tập đoàn kinh tế nhà nước ngoài chức năng sản xuất kinh doanh, còn đảm nhận chức năng điều tiết kinh tế vĩ mô. Do đó, một số Tập đoàn có khả năng phải bù lỗ để bảo đảm ổn định kinh tế - xã hội. Như vậy, lộ trình hình thành thị trường năng lượng, đa dạng hóa sở hữu và phương thức kinh doanh, hướng tới thỏa mãn tốt nhất lợi ích người tiêu dùng và thúc đẩy nhanh việc xóa bao cấp, xóa độc quyền, tiến đến xóa bỏ hoàn toàn việc thực hiện chính sách xã hội thông qua giá năng lượng sẽ còn gặp rất nhiều khó khăn trong thời gian tới.
Hai là, việc hỗ trợ, khuyến khích đa dạng hóa các nguồn năng lượng, trong đó chú trọng tới nguồn năng lượng sạch, thân thiệt với môi trường:
Ô nhiễm môi trường thường gắn liền với việc tiêu hao lãng phí nhiên liệu và năng lượng, chất lượng sản phẩm kém, giá thành cao, vì vậy cơ chế “Năng lượng sạch” hay "Tiêu dùng xanh” đang là áp lực rất lớn lên thị trường, nhà sản xuất năng lượng và của toàn bộ hệ thống chính quyền Việt Nam hiện nay. Người tiêu dùng ngày càng đòi hỏi các sản phẩm năng lượng thân thiệt với môi trường, thỏa mãn các thông số kỹ thuật tối thiểu, đảm bảo sức khỏe, cuộc sống, mặc dù có thể giá thành đắt, nhưng đó là xu thế của nền kinh tế - xã hội phát triển.
Nhận thức được điều đó, trong nhiều năm vừa qua các cấp chính quyền đã có nhiều chính sách, quy định, kế hoạch nhằm triển khai thực hiện; trong đó chính sách giá năng lượng được coi là một trong những chính sách đột phá; nhanh chóng xóa bỏ độc quyền, bao cấp trong cả sản xuất và tiêu dùng năng lượng. Giá năng lượng cần được xác định phù hợp với cơ chế thị trường; Nhà nước điều tiết giá năng lượng thông qua chính sách thuế và các công cụ quản lý khác và Nhà nước ưu tiên phát triển năng lượng mới, năng lượng tái tạo, năng lượng sinh học, điện hạt nhân. Khuyến khích đầu tư ra nước ngoài để tìm kiếm nguồn năng lượng; có chính sách bảo đảm sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế tham gia vào phát triển năng lượng.
Tuy nhiên việc triển khai các chính sách trên thực tiễn còn gặp rất nhiều khó khăn, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, trong đó có một số nguyên nhân rõ rệt như sau:
- Các giải pháp về quản lý, điều tiết của Nhà nước chưa đồng bộ, chưa hiệu quả; chưa có phương pháp để triển khai các giải pháp mang tính đồng bộ nhằm xóa bỏ độc quyền nhà nước, tiếp cận giá năng lượng phù hợp với cơ chế thị trường, phát triển các nguồn năng lượng tái tạo, thân thiệt với môi trường mà chủ yếu là các giải pháp mang tính manh mún, trước mắt để khắc phục tạm thời.
Hiện nay, các nguồn năng lượng thiết yếu đang thuộc quyền quản lý của các Tập đoàn kinh tế nhà nước, như vậy sẽ dẫn tới hệ lụy là bất cứ một sự thao túng, thiếu minh bạch trong điều hành, sản xuất kinh doanh của các Tập đoàn sẽ hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế và bất ổn xã hội.
- Việc quản lý nhà nước trong việc phát triển nguồn năng lượng trước yêu cầu phát triển bền vững ở Việt Nam còn hạn chế; một số quy định về ưu đãi đầu tư cho phát triển năng lượng mới, năng lượng tái tạo theo quy định của Luật Đầu tư, Luật Bảo vệ môi trường chưa được triển khai đầy đủ trong thực tiễn.
Sở dĩ có tình trạng nêu trên, bởi một số lý do điển hình như sau:
- Quy mô của các dự án năng lượng rất lớn, có công nghệ phức tạp, nên vốn đầu tư vào mỗi dự án là rất lớn, trong khi khả năng đáp ứng của các tổ chức tín dụng trong nước là hạn chế do thiếu vốn huy động, đồng thời thị trường cung cấp tín dụng ở Việt Nam chưa đa dạng, hạn chế về các hình thức, nên các tổ chức tín dụng mặc dù đã có sự quan tâm, nhưng không đủ khả năng, tiềm lực để đảm nhận về vốn cho các dự án năng lượng.
- Được sự quan tâm của Chính phủ, trong thời gian vừa qua đã có nhiều dự án năng lượng được thu xếp vốn dưới hình thức ODA hay vay vốn thương mại ngoài nước có bảo lãnh của Chính phủ. Tuy nhiên, nhu cầu năng lượng của Việt Nam là rất lớn, trong khi khả năng vay nợ của Chính phủ chỉ trong khuân khổ cho phép để đảm bảo khả năng trả nợ, nên một số dự án nguồn năng lượng do các Tập đoàn kinh tế nhà nước đang đảm nhận chưa có nguồn vốn để triển khai, thực hiện. Ngoài ra, việc đàm phán vay vốn ODA hay các tổ chức tín dụng nước ngoài cũng đòi hỏi nhiều trình tự, thủ tục phức tạp, đồng thời sự trượt giá của đồng tiền nước ngoài, như đồng dollar Mỹ (USD), đồng tiền chung Châu Âu (EURO) so với đồng tiền Việt Nam trong thời gian vừa qua đã làm quá trình đàm phán vay vốn kéo dài, ảnh hướng tới tiến độ triển khai thực hiện dự án
Ba là, rào cản về chính sách giá đối với nguồn năng lượng
Hiện nay các Tập đoàn kinh tế nhà nước là các đơn vị được Nhà nước giao chức năng, nhiệm vụ làm đầu mối, tập hợp để mua, bán các nguồn năng lượng thiết yếu để điều tiết thị trường và kinh tế vĩ mô như: Tập đoàn Than và Khoáng sản Việt Nam - Vinacomin, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam - PVN hay Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN).
Việc triển khai, đầu tư các dự án nguồn năng lượng, mà đặc biệt là các dự án nguồn năng lượng sạch, năng lượng tái tạo đảm bảo cho sự phát triển bền vững của Việt Nam, cần khoản tài chính rất lớn, nên các chủ đầu tư mong muốn Nhà nước có chính sách giá năng lượng hợp lý, theo cơ chế thị trường để có cơ chế thu hồi vốn và đảm bảo lợi nhuận tối thiếu. Tuy nhiên, ở Việt Nam chưa có thị trường năng lượng hoàn chỉnh, việc phân phối vẫn thuộc độc quyền và tập trung tại các Tập đoàn kinh tế nhà nước, giá thành của sản phẩm đầu ra từ các dự án nguồn năng lượng chưa phản ánh đúng xuất đầu tư và nhu cầu lợi nhuận của các chủ đầu tư. Đặc biệt đối các dự án nguồn năng lượng mới, năng lượng tái tạo, thân thiệt với mối trường, nếu áp đúng, áp đủ chi phí tổn hại tới môi trường vào trong giá thành sản phẩm và miễn trừ chi phí gây tổn hại tới môi trường của quá trình khia thác, sử dụng thì đó chính là lợi ích của nguồn năng lượng tái tạo đem lại nhưng giá thành sản phẩn cao, chưa phù hợp với cơ sở hạ tầng, bài toán về đảm bảo kinh tế vĩ mô ở Việt nam hiện nay.
Bốn là, công tác quản lý, điều hành và xây dựng luật:
Việt Nam là một nước có tiềm năng lớn về các nguồn năng lượng, trong đó có các nguồn năng lượng tái tạo (gió, địa nhiệt, năng lượng mặt trời, sinh hóa…) và việc định hướng, đa dạng hóa các nguồn năng lượng, trong đó chú trọng tới việc phát triển năng lượng tái tạo đã được Đảng và Nhà nước quan tâm từ lâu và đã được cụ thể hóa trong văn bản pháp luật cao nhất của Nhà nước. Trong đó Nhà nước đã có những chính sách, quy định rõ ràng để hỗ trợ, phát triển dự án nguồn năng lượng mới, năng lượng tái tạo như ưu đãi về thuế, hỗ trợ vốn, đất đai để xây dựng cơ sở sản xuất, hay việc Nhà nước khuyến khích đầu tư các dự án phát triển nhà máy phát điện sử dụng các nguồn năng lượng mới và năng lượng tái tạo được hưởng ưu đãi về đầu tư, giá điện và thuế theo hướng dẫn của Bộ Tài chính. Tuy nhiên hiện nay những chính sách, quy định này chưa đồng bộ, nên việc triển khai trên thực tế gặp nhiều khó khăn, và đây cũng chính là lý do khiến cho việc đầu tư, đa dạng hóa các dự án nguồn năng lượng, trong đó ưu tiên phát triển nguồn năng lượng tái tạo ở Việt Nam bị nguội lạnh trong thời gian vừa qua.
Sở dĩ có tình trạng nêu trên là do cách thức quản lý nhà nước tại các cấp chính quyền và các Tập đoàn kinh tế nhà nước tham gia vào hoạt động khai thác năng lượng là chậm chễ, kém hiệu quả và thậm chí là chưa quyết liệt, do nguyên nhân chủ yếu sau:
- Thiếu cơ chế tài chính hiệu quả cho việc đầu tư, quản lý và vận hành các dự án nguồn năng lượng, trong đó có nguồn năng lượng tái tạo
- Quy định pháp luật về đầu tư xây dựng, quy hoạch còn nhiều lỗ hổng, thiếu chính sách quy định đủ mạnh, đồng bộ bao gồm từ điều tra, thăm dò tiềm năng đến khai thác và sử dụng; đồng thời với sự tắc trách, thiếu kiểm soát trong quản lý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về quy hoạch, xây dựng dự án, dẫn tới các dự án được xây dựng có nguy cơ gây tác hại nghiêm trọng đến đa dạng sinh học và bảo tồn tài nguyên thiên nhiên, phá vỡ cảnh quan môi trường, gây tình trạng ô nhiễm môi trường, suy thoái môi trường.
Như vậy, trước mục tiêu phát triển đa dạng hóa các nguồn năng lượng, đảm bảo phát triển bền vững, trước nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế thì phải thống nhất trong cung cách điều hành, quản lý giữa các cấp Nhà nước từ Trung ương tới địa phương.
Năm là, công tác tuyên truyền vận động:
Trong thời gian vừa qua cơ quan nhà nước phần lớn chú trọng tới việc quản lý quá trình khai thác nguồn năng lượng sơ cấp của các Tập đoàn kinh tế nhà nước, mà không mấy quan tâm tới công tác tuyên truyền, vận động các tổ chức, doanh nghiệp trong và ngoài nước cùng tham gia khai thác các dự án sử dụng năng lượng mới, năng lượng tái tạo đảm bảo phát triển bền vững, trước yêu cầu về hội nhập kinh tế quốc tế. Chính vì lý do đó, mà các nhà đầu tư nước ngoài, rụt rè trong việc quyết định đầu tư vào các dự án năng lượng tại Việt Nam. Ngoài ra, người dân cũng ít chú trọng tới việc sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả. Mặc dù, Nhà nước đã ban hành Luật sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả năm 2010, trong đó đã quy định trách nhiệm cụ thể của các tổ chức, cá nhân và cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong công cuộc đảm bảo an ninh năng lượng, bảo vệ môi trường đảm bảo phát triển bền vững.
Như vậy, cùng với quá trình hoàn thiện quy định pháp luật thì đây cũng chính là công tác trọng tâm để Nhà nước kêu gọi mọi thành phần kinh tế cùng tham gia đầu tư, phát triển kinh tế đất nước.
3. Kết luận
Việt Nam đang trong quá trình hoàn thiện cơ chế kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong cơ chế kinh tế đó, để chính sách pháp luật về quản lý nhà nước về phát triển nguồn năng lượng trước yêu cầu phát triển bền vững ở Việt Nam không mâu thuẫn hay đi ngược lại các mục tiêu kinh tế thị trường thì việc nghiên cứu để đưa ra các biện pháp hỗ trợ, khuyến khích đa dạng hóa các nguồn năng lượng, trong đó chú trọng phát triển năng lượng mới, năng lượng tái tạo đảm bảo an ninh năng lượng, phát triển bền vững, trước yêu cầu về hội nhập là việc làm hết sức cần thiết.
Tuy nhiên, công cuộc bảo vệ môi trường, phát triển kinh tế là cuộc chiến lâu dài, khó khăn giữa cái lợi trước mắt và lợi ích lâu dài, giữa lợi ích cục bộ (của cá nhân, tổ chức) và lợi ích chung của cộng đồng và toàn xã hội. Vì vậy, để đạt được các mục tiêu kinh tế - xã hội đặt ra thì nhất thiết cả hệ thống chính trị phải chung tay, thực hiện đánh giá đúng, đầy đủ các mặt đã làm được, những tồn tại, khó khăn đang gặp phải, để từ đó hoạch định chính sách, xây dựng quy định pháp luật phù hợp với thực tiễn, góp phần thúc đẩy và phát triển đất nước theo hướng bền vững.
Tập đoàn Điện lực Việt Nam
1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2011), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Văn kiện Đại hội Đảng XI, Hà Nội;
2. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2011), Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020, văn kiện Đại hội XI, Hà Nội;
3. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2011), Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, văn kiện Đại hội XI, Hà Nội;
4. Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng (2011), phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X về các văn kiện Đại hội XI của Đảng, Hà Nội;
5. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2012), Kết luận số 50-KL/TW, ngày 29/10/2012, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về Đề án “Tiếp tục sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước”, Hà Nội.
6. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2013), Kết luận số 74-KL/TW, ngày 17/10/2013 Hội nghị lần thứ tám BCHTW (Khóa XI) về “Tình hình kinh tế - xã hội năm 2013 và nhiệm vụ năm 2014” và “Đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội XI về kinh tế - xã hội, trọng tâm là ba đột phá chiến lược gắn với tái cơ cấu nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, Hà Nội;
7. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2013), Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 3/6/2013 Hội nghị Trung ương 7 khóa XI về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường, Hà Nội;
8. Bộ Chính trị (2009), Kết luận số 234-TB/TƯ ngày 1/4/2009 báo cáo kiểm điểm tình hình thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII) về Khoa học và công nghệ và nhiệm vụ, giải pháp phát triển khoa học và công nghệ từ nay đến năm 2020, Hà Nội;
9. Chính phủ (2007), Quyết định số 1855/QĐ-TTg ngày 27/12 của Thủ tướng Chính phủ về Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2050, Hà Nội;
10. Nguyễn Bình Khánh và Bùi Tiến Trung (2014), Một số dấu hiệu an ninh năng lượng cho đánh giá trạng thái an ninh năng lượng của Việt Nam, Tạp chí Khoa học năng lượng - IES (Số 03-2014), Hà Nội;
11. Thủ tướng Chính phủ (2006), Quyết định số 386/QĐ-TTg ngày 09/3 về việc phê duyệt “Chiến lược phát triển ngành dầu khí Việt Nam giai đoạn 2006-2015, định hướng đến năm 2025, Hà Nội;
12. Thủ tướng Chính phủ (2007), Quyết định số 110/2007/QĐ-TTg ngày 18/7 về việc phê duyệt Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2006 - 2015 có xét đến năm 2025, Hà Nội;
13. Thủ tướng Chính phủ (2008), Quyết định số 89/2008/QĐ-TTg ngày 07/7 về việc phê duyệt Chiến lược phát triển ngành than Việt Nam đến năm 2015, định hướng đến năm 2025, Hà Nội;
14. Thủ tướng Chính phủ (2009), Quyết định số 223/QĐ-TTg ngày 18/02 về việc phê duyệt “Quy hoạch phát triển ngành dầu khí Việt Nam giai đoạn 2015, định hướng đến năm 2025”, Hà Nội;
15. Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định số 459/QĐ-TTg ngày 30/3 về việc phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển ngành công nghiệp khí Việt Nam giai đoạn 2015, định hướng đến năm 2025, Hà Nội;
16. Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định số 1208/QĐ-TTg ngày 21/07 về việc phê duyệt Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2011 - 2020 có xét đến năm 2030, Hà Nội.