Sự kiện Việt Nam phê chuẩn Công ước chống tra tấn thực sự có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động bảo vệ nhân quyền, thực hiện nhất quán chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà nước Việt Nam góp phần triển khai, thi hành có hiệu quả Hiến pháp năm 2013 về bảo đảm quyền con người, quyền công dân và là bước đi cụ thể trong quá trình chủ động hội nhập quốc tế của Việt Nam, khẳng định Việt Nam là thành viên tích cực và có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế.
Tra tấn thường được nói đến với các hình thức ngược đãi, được sử dụng như một sự trừng phạt, đe dọa nhằm kiểm soát người khác để có thể có được thông tin hay chỉ để thỏa mãn các xung đột tàn bạo[1] có những hành vi nhất định được hiển nhiên xác định là tra tấn thể chất như: Sốc điện vào bộ phận sinh dục hoặc kéo móng tay ra khỏi ngón tay; dùng các hung khí hoặc tay không tác động vào cơ thể của nạn nhân[2]; nhấn nước hoặc gây nghẹt thở; treo người trong một thời gian dài[3]... Tuy nhiên, tra tấn không chỉ bằng các hình thức gây tổn thương về thể chất, mà có thể được thực hiện bằng hình thức tra tấn tinh thần. Công ước chống tra tấn không quy định cụ thể, nhưng có thể kể đến một số hình thức như: Biệt giam nạn nhân trong phòng kín, không có ánh sáng; không tiếp xúc trong một thời gian dài; cho nạn nhân chứng kiến cảnh người thân bị hành hạ; cho nạn nhân chịu đựng những âm thanh khó chịu khiến nạn nhân bị ám ảnh hay ức chế[4]... Các hành vi gây ra trạng thái quá mức chịu đựng của một con người, uy hiếp tinh thần dẫn đến nạn nhân sợ hãi, đau khổ, tuyệt vọng thông qua các mối đe dọa đối với gia đình hoặc những người thân yêu[5].
Khi tham gia Công ước chống tra tấn đã đặt ra một yêu cầu đối với các nước thành viên là “phải thực hiện các biện pháp cụ thể về lập pháp, hành pháp, tư pháp hoặc các biện pháp hiệu quả khác nhằm phòng ngừa mọi hành vi tra tấn”[6], đồng thời, phải ghi nhận nội dung Điều 1 Công ước về khái niệm tra tấn vào hệ thống pháp luật quốc gia. Với vai trò là thành viên Hội đồng nhân quyền và là quốc gia đã phê chuẩn Công ước, cũng như gia nhập nhiều Điều ước quốc tế về quyền con người[7], ngày 17/3/2015, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 364/QĐ-TTg về việc phê duyệt Kế hoạch triển khai thực hiện Công ước chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người, trong đó nêu rõ: “Nghiên cứu hoàn thiện các quy định có liên quan trong Bộ luật Tố tụng hình sự để bảo đảm tốt hơn quyền con người, đặc biệt là quyền của người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam”[8]. Căn cứ vào kế hoạch này các Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân các cấp đã nghiêm túc triển khai thực hiện: Tổ chức tập huấn nội dung Công ước cho cán bộ, công chức; tuyên truyền Công ước chống tra tấn rộng rãi cho quần chúng nhân dân, có các kế hoạch nghiên cứu lĩnh vực pháp lý để phòng ngừa tra tấn trong nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực tố tụng hình sự.
Thực tế, Bộ luật Tố tụng hình sự qua các thời kỳ, mà cụ thể là Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã được các nhà lập pháp nghiên cứu nội luật hóa những quan điểm tiến bộ nhằm bảo đảm quyền con người trong các văn kiện quốc tế cũng như của Công ước chống tra tấn để phòng ngừa tra tấn như: Nguyên tắc bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể; nguyên tắc bảo hộ, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản cá nhân, pháp nhân[9]; quy định “ghi âm, ghi hình có âm thanh”; những việc cần phải làm ngay sau khi cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người hoặc nhận người bị bắt; thông báo về việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp; các quyền của người bị buộc tội và một số chế định khác nhằm hỗ trợ cho người bị buộc tội có khả năng phòng ngừa hành vi dùng nhục hình từ những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng... Do đó, khi chính thức phê chuẩn Công ước chống tra tấn, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã có những quy định thể hiện trách nhiệm và nghĩa vụ của quốc gia thành viên.
Thời gian qua, mặc dù tình hình tội phạm vẫn còn diễn biến phức tạp và đang có chiều hướng gia tăng số vụ, số người phạm tội[10]. Nhưng cơ quan điều tra trong lực lượng Công an nhân dân đã nghiêm chỉnh chấp hành các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, từng bước chấn chỉnh, khắc phục tồn tại, thiếu sót vi phạm các quyền con người, đồng thời, đã triển khai áp dụng nhiều biện pháp tích cực để quán triệt và thực hiện nhiệm vụ Chiến lược cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước để phòng ngừa tra tấn trong tố tụng hình sự nhất là đối với “lấy lời khai, hỏi cung bị can”. Bởi vì, đây là hoạt động có khả năng xảy ra tra tấn (dùng nhục hình cao nhất). Theo Báo cáo Quốc gia của Việt Nam về thực thi Công ước chống tra tấn, từ năm 2010 đến năm 2015, Tòa án nhân dân chưa thụ lý vụ án nào về tội bức cung và tội mua chuộc hoặc cưỡng ép người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; đã thụ lý và xét xử 10 vụ án với tổng số 26 lượt bị cáo về tội dùng nhục hình theo Điều 373 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Đồng thời, theo Báo cáo của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, từ năm 2016 đến năm 2020, Tòa án nhân dân đã thụ lý, xét xử 10 vụ/25 bị cáo[11]. Có thể thấy rằng, với số lượng vụ án hình sự mỗi năm xảy ra là rất lớn, thì vẫn còn tồn tại những vụ án dùng nhục hình nhưng chiếm tỉ lệ rất thấp[12]. Theo điều tra xã hội học của tác giả tại một số trại giam của Bộ Công an cho thấy, hiện nay, lực lượng điều tra viên nói chung đã tuân thủ các quy định tố tụng hình sự để bảo đảm quyền con người, phòng ngừa tra tấn trong quá trình lấy lời khai, hỏi cung bị can như: Các bị can được phổ biến về quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng, được hỏi thăm tình trạng sức khỏe khi tiến hành làm việc; lấy lời khai, hỏi cung bị can thường được tiến hành vào các khung giờ 7 - 11 giờ; 13 - 17 giờ; thời gian trung bình từ 2 - 3 giờ/1 lần; có sự hiện diện của người bào chữa khi các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng tổ chức hỏi cung bị can và được đặt câu hỏi khi điều tra viên đồng ý (khi người bị buộc tội có nhờ người bào chữa); cho phép người bị buộc tội được thực hiện quyền im lặng; có sự tham gia của Viện kiểm sát khi tiến hành hỏi cung bị can… Có thể đánh giá rằng, cơ bản Việt Nam đã thực hiện nghĩa vụ này và đạt được những kết quả nhất định về phòng ngừa các hành vi tra tấn khi cơ quan điều tra các cấp tiến hành lấy lời khai, hỏi cung bị can. Vấn đề này đã giúp cho Việt Nam hòa nhập với cộng đồng quốc tế phòng ngừa các hành vi tra tấn trong tố tụng hình sự và góp phần khám phá nhanh các vụ án và giảm tỉ lệ án vụ án oan sai có thể xảy ra.
Tuy nhiên, thực tế hành vi tra tấn vẫn diễn ra, mặt khác, tra tấn là một loại tội phạm có mức độ ẩn khá cao, chỉ khi nào nạn nhân bị dùng nhục hình đến mức phải nhập viện, thậm chí, dẫn đến tử vong thì hành vi mới được phát hiện. Trong khi đó, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 tuy đã thể hiện nội dung phòng ngừa tra tấn, nhưng vẫn còn một số bất cập như sau:
Một là, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã có quy định về trình tự, thủ tục tiến hành hỏi cung bị can, nhưng không quy định cụ thể về trình tự, thủ tục tiến hành lấy lời khai đối với người bị tạm giữ, người bị bắt trong các trường hợp, dẫn đến mỗi địa phương áp dụng mỗi kiểu. Có nơi phổ biến quyền và nghĩa vụ khi lấy lời khai, nhưng cũng có nơi không hoặc không xác định trạng thái tinh thần của người được lấy lời khai. Đồng thời, hoạt động lấy lời khai cũng không bắt buộc phải ghi âm, ghi hình có âm thanh. Trong khi đó, thực tiễn khảo sát các vụ án dùng nhục hình cho thấy, tỉ lệ dùng nhục hình trong quá trình lấy lời khai chiếm đa số so với hỏi cung bị can. Bởi vì, khi bị can đã bị khởi tố thì đã có một số cơ chế giám sát.
Hai là, tra tấn có thể được thực hiện bằng hình thức thể chất hoặc tinh thần. Do đó, việc kéo dài thời gian lấy lời khai, hỏi cung bị can liên tục trong nhiều giờ hoặc tiến hành xuyên đêm chính là một trong những biểu hiện hành vi tra tấn về tinh thần để có được lời nhận tội. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 tuy có quy định không tiến hành hỏi cung bị can vào bên đêm[13], song lại có quy định mở là trừ những trường hợp không thể trì hoãn được, tuy nhiên, không nêu rõ như thế nào là trường hợp không thể trì hoãn được. Thực tiễn cho thấy, tiến hành lấy lời khai, hỏi cung bị can vào ban đêm rất dễ dẫn đến dùng nhục hình, bởi vì, cả điều tra viên và đối tượng đều trong trạng thái mệt mỏi về tinh thần. Điều tra viên mong muốn có được lời nhận tội, đối tượng quanh co không nhận tội, thì tra tấn là cách làm nhanh nhất để có được lời khai. Điển hình như vụ 07 thanh niên bị dùng nhục hình xảy ra tại tỉnh Sóc Trăng, vụ án Lê Thanh Kiều ở Phú Yên…
Ba là, theo quy định Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, thời điểm người bào chữa tham gia là từ khi người bị bắt có mặt tại trụ sở của cơ quan điều tra; được tham gia khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, hỏi cung bị can[14]. Tuy nhiên, quy định tại khoản 2 Điều 75 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì trong thời hạn 12 giờ kể từ khi nhận đơn yêu cầu người bào chữa, thì cơ quan có thẩm quyền có trách nhiệm chuyển đơn cho người bào chữa hoặc người thân thích của họ; trong thời hạn 24 giờ kể từ khi cơ quan có thẩm quyền nhận đủ các loại giấy tờ theo quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 78 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và không thuộc trong các trường hợp tại khoản 5 của Điều này thì mới giải quyết cho phép bào chữa hay không. Trong khi đó, quy định tại Điều 114 của Bộ luật này về những việc cần làm ngay sau khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người hoặc nhận người bị giữ bị bắt, thì các cơ quan có thẩm quyền phải tiến hành lấy lời khai ngay. Với những quy định này, thì thực tế, người bào chữa không thể tham gia lấy lời khai từ khi người bị bắt, tạm giữ khi họ có mặt tại trụ sở cơ quan điều tra. Vấn đề này đã được tác giả khảo sát ý kiến của luật sư là: 68/82 (82,9%) cho rằng, họ chỉ được tham gia khi đã khởi tố bị can, chỉ có 7/82 trả lời là có tham gia bào chữa trước giai đoạn khởi tố bị can. Với kết quả thực tế này cho thấy, quy định của pháp luật cũng đang gây khó khăn cho sự tiếp cận sớm của người bào chữa nhằm phòng ngừa tra tấn đối với người bị buộc tội.
Bốn là, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 ghi nhận những người bị buộc tội có quyền không tự đưa ra lời khai chống lại mình hoặc buộc phải nhận mình có tội. Đây là nội dung được thể chế hóa từ quyền im lặng đang được áp dụng rất phổ biến trong tố tụng hình sự trên thế giới. Tuy nhiên, thực tiễn ở Việt Nam cho thấy, nếu quá trình ghi nhận lời khai mà im lặng, không khai báo gì thì rất có thể người bị buộc tội còn bị ghép vào tình tiết tăng nặng được quy định trong Bộ luật Hình sự. Như vậy, về bản chất, quyền này chưa được thực hiện hữu hiệu trong thực tiễn và còn mang nặng tính hình thức.
Báo cáo Quốc gia của Việt Nam đã được Ủy ban Chống tra tấn đánh giá cao tính lập pháp của Việt Nam để phòng ngừa các hành vi tra tấn từ phía cơ quan công quyền. Tuy nhiên, bên cạnh đó, Ủy ban Chống tra tấn cũng đã quan ngại một số vấn đề như: Bộ luật Hình sự Việt Nam vẫn chưa ghi nhận hành vi tra tấn như đã nêu tại Điều 1 của Công ước chống tra tấn; Việt Nam bị các tổ chức khác cáo buộc về việc lan rộng sử dụng tra tấn và ngược đãi, đặc biệt là trong các trụ sở cảnh sát, cũng như các địa điểm khác, nơi mà có người bị tước tự do, số vụ về tra tấn (dùng nhục hình trong thời gian qua phát hiện là còn quá ít… Do đó, để phòng ngừa tra tấn, đấu tranh chống lại các luận điệu xuyên tạc “Việt Nam vi phạm nhân quyền”, chúng ta cần minh bạch, rõ ràng, đồng thời, cần sửa đổi một số quy định hiện hành để phòng ngừa tra tấn trong tố tụng hình sự, cụ thể:
- Cần nghiên cứu để xây dựng quy định về trình tự, thủ tục, thẩm quyền, thời gian tiến hành lấy lời khai và quy định rõ không được tiến hành lấy lời khai vào ban đêm, trừ trường hợp vụ việc xảy ra vào ban đêm cần phải truy bắt ngay đồng phạm, kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc các hành vi chuẩn bị phạm tội; thời gian lấy lời khai không quá 08 giờ/ngày. Cách 02 tiếng lấy lời khai sẽ được nghỉ ngơi; không tiến hành lấy lời khai vào các khung giờ nghỉ trưa hoặc tiến hành liên tục 08 giờ/1 lần; được ghi âm, ghi hình có âm thanh; người bị bắt, bị tạm giữ được quyền từ chối trả lời các câu hỏi nếu câu hỏi đó không liên quan đến nội dung vụ án; có sự tham gia của người bào chữa, kiểm sát viên khi tiến hành lấy lời khai, lời khai có được do hành vi tra tấn sẽ không có giá trị làm chứng cứ chứng minh.
- Đối với hỏi cung bị can, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cần bổ sung những trường hợp đặc biệt được tiến hành hỏi cung bị can vào ban đêm hoặc có văn bản hướng dẫn cụ thể nội dung này. Đồng thời, tương tự như lấy lời khai, cần ghi nhận rõ về thời gian, tần xuất được tiến hành hỏi cung bị can, ghi nhận quyền từ chối khai nhận nếu câu hỏi không liên quan nội dung vụ án, thời gian nghỉ ngơi giữa các buổi hỏi cung bị can nếu kéo dài. Đồng thời, vấn đề quan trọng là kiểm sát viên trong mỗi vụ án phải có một bản phúc cung cuối cùng để ghi nhận lại nội dung vụ việc, qua đó, xem xét bị can có bị tra tấn dẫn đến khai sai sự thật hay không.
- Sửa đổi quy định về trình tự thủ tục khi tham gia bào chữa của người bào chữa theo hướng giảm các thủ tục, giải quyết hồ sơ nhanh nhất khi có yêu cầu bào chữa để bảo đảm quyền tiếp cận đối với người bào chữa của người bị buộc tội theo hướng, chỉ cần người bào chữa xuất trình được các giấy tờ có liên quan đến việc bào chữa, thì cơ quan tiến hành tố tụng phải cho họ tham gia ngay.
- Hiện nay, các cơ quan tiến hành tố tụng đều có hệ thống các trường chuyên ngành. Lực lượng điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán đều được đào tạo chính quy tại đây. Do đó, trong các chương trình học cần có các môn về nhân quyền, luật quốc tế, công pháp quốc tế để họ có thể nắm rõ về tầm quan trọng của quyền con người trong tư pháp hình sự. Từ đó, giáo dục và hình thành ý thức tôn trọng các quyền con người, quyền tự do dân chủ của nhân dân trong thực tiễn công tác sau này.
Đại học Cảnh sát nhân dân
[1]. Manfred Nowak, Elizabeth McArthur (2008), The United Nation Convention Against Torture - A Commentary, Oxford University Press, p. 29 - 49.
[2]. Tlđd số 4, p. 15.
[3]. Giải thích của Uỷ ban chống tra tấn, Bình luận chung số 20, đoạn 6. Xem: Manfred Nowak, Elizabeth McArthur (2008), The United Nation Convention Against Torture - A Commentary, Oxford University Press, p. 29 - 49.
[4]. Giải thích của Ủy ban chống tra tấn, Bình luận chung số 20, đoạn 6. Xem: Manfred Nowak, Elizabeth McArthur (2008), The United Nation Convention Against Torture - A Commentary, Oxford University Press, p. 79.
[5]. Giải thích của Uỷ ban chống tra tấn, Bình luận chung số 20, đoạn 6. Xem: Manfred Nowak, Elizabeth McArthur (2008), The United Nation Convention Against Torture - A Commentary, Oxford University Press, p. 29 - 49.
[6]. Khoản 1 Điều 2 Công ước Chống tra tấn.
[7]. Quyết định số 364/QĐ-TTg ngày 17/3/2015 của Thủ tướng chính phủ về việc phê duyệt Kế hoạch triển khai thực hiện Công ước Chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người, tr. 3.
[8]. Quyết định số 364/QĐ-TTg ngày 17/3/2015 của Thủ tướng chính phủ về việc phê duyệt Kế hoạch triển khai thực hiện Công ước Chống tra tấn và các hình thức đối xử trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người.
[9]. Xem Điều 10, Điều 11 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
[10]. Bộ Công an, Báo cáo tổng kết năm từ 2012 đến năm 2019.
[11]. Cục Thống kê, Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
[12]. Ban nghiên cứu gia nhập Công ước chống tra tấn, Báo cáo tổng kết thực tiễn thi hành pháp luật liên quan đến bảo vệ quyền con người giai đoạn (2000 - 2012), Hà Nội.
[13]. Xem Điều 183 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
[14]. Xem Điều 73, Điều 74 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.