Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới (Nghị quyết số 27-NQ/TW) đã xác định mục tiêu tổng quát đến năm 2045, mục tiêu cụ thể đến năm 2030, thống nhất nhận thức về các đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đề ra 10 nhiệm vụ, giải pháp để thực hiện các mục tiêu này. Đối với công tác thi hành án, Nghị quyết xác định: “Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan thi hành án... Hoàn thiện cơ chế nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thi hành án dân sự, hành chính theo hướng rút ngắn thời gian, giảm thiểu chi phí. Nâng cao hiệu quả phối hợp giữa các cơ quan trong thi hành án hình sự, dân sự và hành chính; thực hiện xã hội hóa một số hoạt động thi hành án dân sự với cơ chế bảo đảm và lộ trình phù hợp”. Do đó, việc nghiên cứu, hoàn thiện các quy định của Luật Thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014 (Luật Thi hành án dân sự) là rất cần thiết để thể chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng.
1. Vướng mắc, bất cập trong quy định về đương sự trong thi hành án dân sự
Luật Thi hành án dân sự hiện hành chưa quy định đầy đủ cơ chế thúc đẩy cũng như các chế tài đủ tính răn đe để buộc người phải thi hành án tự nguyện, nhanh chóng thi hành án; chưa phát huy hết vai trò, trách nhiệm của người được thi hành án; một số nội dung chưa bảo đảm thống nhất với Bộ luật Dân sự năm 2015 và Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, cụ thể:
1.1. Đối với người phải thi hành án
- Người phải thi hành án thường không kê khai trung thực, không cung cấp đầy đủ thông tin về tài sản, điều kiện thi hành án nên gây khó khăn cho hoạt động xác minh của chấp hành viên.
- Chưa có cơ chế và chế tài phù hợp để buộc người phải thi hành án phải tự giác thực hiện nghĩa vụ của mình.
Theo thông lệ quốc tế đã được nhiều nước công nhận và thể hiện tại Bộ luật Thi hành án toàn cầu, trách nhiệm của người phải thi hành án được quy định rất nghiêm khắc. Theo đó, họ phải có trách nhiệm với nghĩa vụ thi hành án của mình bằng tất cả các tài sản của mình ở bất cứ nơi nào khi xác minh làm rõ. Luật quốc gia có thể yêu cầu người phải thi hành án phải thông báo những tài sản mà mình có. Luật phải đưa ra các chế tài hình phạt để áp dụng trong trường hợp này. Những người phải thi hành án cố tình đưa mình vào trạng thái phá sản để trốn tránh nghĩa vụ thi hành án sẽ phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình[1].
1.2. Đối với người được thi hành án
Luật Thi hành án dân sự chưa thể hiện rõ nguyên tắc và tạo điều kiện, đề cao trách nhiệm của người được thi hành án chủ động thu thập chứng cứ chứng minh và tự bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình theo tinh thần của Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2005 (Nghị quyết số 49-NQ/TW); chưa phát huy được hiệu quả của việc xã hội hóa một số hoạt động thi hành án dân sự theo chủ trương của Nghị quyết số 49-NQ/TW và Nghị quyết số 27-NQ/TW. Cụ thể:
- Về xác minh điều kiện thi hành án: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự năm 2014 quy định chấp hành viên chịu trách nhiệm xác minh điều kiện thi hành án và ngân sách nhà nước phải chịu chi phí. Đương sự vẫn có quyền cung cấp thông tin về điều kiện thi hành án và được xét miễn, giảm phí thi hành án nếu thông tin chính xác. Quy định này mặc dù tháo gỡ được một phần khó khăn cho đương sự so với Luật Thi hành án dân sự năm 2008 nhưng lại chưa thực sự phù hợp với thông lệ quốc tế[2], nguyên tắc chung về dân sự[3] và tạo ra áp lực lớn đối với chấp hành viên, cơ quan thi hành án dân sự và ngân sách nhà nước[4]. Đồng thời, quy định trên làm cho người được thi hành án “trông chờ” vào hoạt động xác minh của chấp hành viên, không chủ động tìm kiếm các thông tin về điều kiện thi hành án của người phải thi hành án và không sẵn sàng chi trả chi phí cho dịch vụ xác minh của thừa phát lại. Điều này phần nào chưa kịp thời thể chế hóa chủ trương xã hội hóa một số hoạt động thi hành án dân sự được ghi nhận trong Nghị quyết số 49-NQ/TW và Nghị quyết số 27/NQ-TW.
Tham khảo kinh nghiệm quốc tế cũng cho thấy, trong quy trình của một số nước như Singapore, Anh, Nhật Bản, Hàn Quốc... người phải thi hành án được hướng dẫn khai thông tin thu nhập, tài sản theo mẫu và cung cấp các tài liệu liên quan đến tài sản như: Ô tô, bất động sản, tài khoản ngân hàng và bảng kê trong 06 - 12 tháng trước... Bản thông tin tự kê khai này được gửi tới người được thi hành án, chấp hành viên để nghiên cứu trước và chuẩn bị các câu hỏi chất vấn, khai thác thông tin xác minh tài sản của người phải thi hành trong buổi tường trình trước Tòa án. Bên cạnh đó, tại Điều 5 Bộ luật Thi hành án toàn cầu cũng có quy định về nguyên tắc cơ bản trong thi hành án dân sự liên quan đến chi phí thi hành án: Chi phí thi hành án do người phải thi hành án chi trả nhưng người được thi hành án phải tạm ứng số tiền đó trước, trừ trường hợp khác theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp thi hành án phá sản của người phải thi hành án, các chi phí thi hành án do người được thi hành án chi trả. Trường hợp thẩm phán cho rằng người được thi hành án đã lạm quyền khi cưỡng chế thì có thể hướng dẫn người được thi hành án chi trả chi phí cưỡng chế và bồi thường những tổn thất mà bên phải thi hành án gánh chịu. Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm rằng các chi phí thi hành án phải được ấn định, ổn định, minh bạch và hợp lý.
- Một số quy định của Luật Thi hành án dân sự chưa phát huy hiệu quả vai trò, trách nhiệm và sự chủ động của người được thi hành án nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trong quá trình thi hành án, mà thay vào đó lại giao trách nhiệm thực hiện cho chấp hành viên. Cụ thể:
+ Người được thi hành án ít khi thực hiện quyền yêu cầu tuyên bố vô hiệu liên quan đến giao dịch đối với tài sản thi hành án nhằm trốn tránh thi hành án để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình; thực tế, loại việc này hầu như đều phải do chấp hành viên thực hiện[5].
+ Luật Thi hành án dân sự quy định để tổ chức cưỡng chế thì cơ quan thi hành án dân sự tạm ứng kinh phí từ ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, nguồn kinh phí tạm ứng từ ngân sách nhà nước có hạn, trong một số trường hợp gây ảnh hưởng phần nào đến tiến độ thi hành án. Trong khi nhiều trường hợp người được thi hành án có khả năng kinh tế (như các tổ chức tín dụng) sẵn sàng tự nguyện nộp tạm ứng chi phí cưỡng chế.
- Chưa có quy định về cơ chế kết thúc việc tổ chức thi hành án trong trường hợp cơ quan thi hành án dân sự đã thông báo quyền của người được thi hành án nhưng họ không thực hiện để bảo vệ quyền của mình.
1.3. Đối với người tham gia thi hành án dân sự khác
- Luật Thi hành án dân sự chưa quy định định rõ, đầy đủ quyền và nghĩa vụ của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong quá trình thi hành án, dẫn đến còn cách hiểu, áp dụng khác nhau. Chẳng hạn như, việc chuyển hóa vai trò từ người thứ ba có tài sản bảo đảm thành người phải thi hành án[6].
- Bên cạnh đó, Luật Thi hành án dân sự cũng chưa quy định cụ thể vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của thừa phát lại trong thi hành án dân sự; chưa có quy định cụ thể về những người tham gia thi hành án dân sự khác như: Người đại diện, người phiên dịch, người chứng kiến…
1.4. Quy định về hậu quả pháp lý trong trường hợp đương sự không thực hiện nghĩa vụ chưa đủ tính răn đe
- Việc quy định các chế tài trong hoạt động thi hành án còn rất hạn chế và chưa hiệu quả, chỉ mới dừng lại ở việc phạt hành chính hoặc đề nghị truy cứu trách nhiệm hình sự nhưng rất khó thực hiện do chưa bảo đảm tính đồng bộ.
- Chưa có cơ chế xử lý trong trường hợp người phải thi hành án là pháp nhân, doanh nghiệp phải thi hành nghĩa vụ buộc thực hiện hoặc buộc không thực hiện công việc nhất định (phải do chính người phải thi hành án thực hiện, người khác không thể thực hiện thay) nhưng họ không chấp hành. Cụ thể: Điều 76 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự) giới hạn những trường hợp pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự. Như vậy, nếu các pháp nhân không thực hiện nghĩa vụ đã được tuyên trong bản án, thì cơ quan thi hành án dân sự không có cơ sở đề nghị cơ quan có thẩm quyền truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân đó. Do đó, cần nghiên cứu có chế tài đối với các trường hợp pháp nhân không chấp hành án liên quan đến quyền kinh doanh, huy động vốn.
1.5. Luật Thi hành án dân sự chưa có các quy định để phục vụ việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của đương sự qua các hình thức trực tuyến theo yêu cầu chuyển đổi số, nhất là việc thực hiện các thủ tục tống đạt, thông báo
Qua nghiên cứu các quy định liên quan của Luật Thi hành án dân sự cho thấy, nguyên nhân của các vấn đề vướng mắc, bất cập nêu trên chủ yếu là do: (i) Luật Thi hành án dân sự chưa tạo được đầy đủ cơ sở pháp lý để thu hút các nguồn lực xã hội tham gia vào hoạt động thi hành án dân sự và thực hiện chủ trương xã hội hóa một số hoạt động thi hành án dân sự theo Nghị quyết số 49-NQ/TW và Nghị quyết số 27-NQ/TW. (ii) Luật Thi hành án dân sự, Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, sửa đổi, bổ sung năm 2020 (Luật Xử lý vi phạm hành chính) và Bộ luật Hình sự chưa có chế tài đủ nghiêm khắc đối với hành vi vi phạm của người phải thi hành án như không kê khai, kê khai không trung thực, cố ý tẩu tán, che giấu tài sản nhằm trốn tránh thi hành án; các hành vi chống đối, chây ỳ, không thi hành án...
2. Định hướng sửa đổi, bổ sung Luật Thi hành án dân sự
Để thể chế hóa chủ trương xã hội hóa một số hoạt động thi hành án dân sự theo Nghị quyết số 27-NQ/TW, bảo đảm đầy đủ quyền và nghĩa vụ của đương sự phù hợp với khuôn khổ, các nguyên tắc trong thực hiện pháp luật, cần sửa đổi, bổ sung quy định mới về quyền, nghĩa vụ của đương sự, người tham gia thi hành án dân sự khác theo hướng tăng tính chủ động và trách nhiệm của đương sự trong thi hành án dân sự, tăng chế tài xử lý đối với các hành vi vi phạm, chống đối, chây ỳ thi hành án. Cụ thể:
2.1. Đối với quy định chung về người được thi hành án, người phải thi hành án, người tham gia thi hành án dân sự khác
2.1.1. Thiết kế một chương về đương sự, người tham gia thi hành án dân sự khác
Hoàn thiện cơ sở pháp lý để người được thi hành án dân sự có quyền và nghĩa vụ chủ động xác minh, chứng minh điều kiện thi hành án, đề nghị áp dụng các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự. Cơ quan thi hành án dân sự có trách nhiệm xác minh đối với các đối tượng chính sách và có trách nhiệm hỗ trợ đương sự trong việc xác minh và chỉ tiến hành xác minh điều kiện thi hành án dân sự trong trường hợp do pháp luật quy định.
Đặc biệt, quy định quyền, nghĩa vụ của đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong việc cung cấp thông tin dữ liệu và sử dụng các ứng dụng công nghệ thông tin để tiếp nhận các văn bản tống đạt, thông báo của cơ quan thi hành án dân sự trong quá trình tổ chức thi hành án.
2.1.2 Hoàn thiện các quy định về thủ tục thi hành án dân sự theo các nguyên tắc về quyền, nghĩa vụ của đương sự và bổ sung các vấn đề chưa được luật điều chỉnh
Thứ nhất, tương ứng với nghĩa vụ của đương sự trong cung cấp thông tin dữ liệu và sử dụng các ứng dụng công nghệ thông tin, quy trình thi hành án dân sự cần hoàn thiện các quy định để đương sự thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình, như thực hiện thủ tục thông báo, tống đạt trực tuyến, tiếp nhận và trả kết quả xử lý yêu cầu của đương sự trực tuyến trên môi trường mạng.
Thứ hai, hoàn thiện quy định về xác minh điều kiện thi hành án: Tham khảo kinh nghiệm của nhiều quốc gia trên thế giới, Luật Thi hành án dân sự có thể bổ sung quy định cụ thể trách nhiệm, vai trò của người được thi hành án trong quá trình xác minh điều kiện thi hành án và nghĩa vụ của người phải thi hành án trong kê khai thông tin theo hướng tạo cơ chế xác minh song hành của đương sự (đương sự có thể tự mình hoặc ủy quyền cho thừa phát lại[7]) và của cơ quan thi hành án dân sự. Theo đó, quy định việc xác minh điều kiện thi hành án là quyền của đương sự để hỗ trợ cơ quan thi hành án dân sự và thực hiện chủ trương xã hội hóa một số hoạt động thi hành án dân sự được ghi nhận trong Nghị quyết số 49-NQ/TW và Nghị quyết số 27/NQ-TW. Trách nhiệm chính trong việc xác minh điều kiện thi hành án vẫn là của chấp hành viên và cơ quan thi hành án dân sự sẽ là người quyết định việc lựa chọn và sử dụng kết quả xác minh để làm căn cứ tổ chức thi hành án.
Cơ quan thi hành án dân sự đóng vai trò đại diện cho quyền lực nhà nước để buộc người phải thi hành án kê khai thông tin và cơ quan, tổ chức quản lý tài sản, tài khoản cung cấp thông tin; kiểm định tính chính xác của thông tin do người phải thi hành án, cơ quan, tổ chức cung cấp; tổ chức thi hành trên cơ sở kết quả đã được kiểm định và ý kiến của người được thi hành án[8]. Người phải thi hành án nếu không kê khai, hoặc khai báo gian dối có thể phải chịu chế tài nghiêm khắc, như phạt tù hoặc phạt tiền. Người được thi hành án chịu một khoản phí nhất định đối với yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự hỗ trợ xác minh điều kiện thi hành án.
Có thể sửa đổi Luật Thi hành án dân sự theo hướng thiết kế: (i) Trình tự, thủ tục để người được thi hành án thực hiện quyền xác minh; trách nhiệm chi trả chi phí khi yêu cầu xác minh bổ sung; (ii) Cách thức để người phải thi hành án thực hiện nghĩa vụ kê khai; (iii) Trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức liên quan trong cung cấp thông tin về tài sản, tài khoản của người phải thi hành án; (iv) Bổ sung các quy định để làm rõ hơn trình tự, thủ tục thi hành để thực hiện xác minh kịp thời, hiệu quả.
Quy định như trên sẽ góp phần cân bằng quyền tự quyết, hiệu lực, hiệu quả của người thực thi với quyền của người được thi hành án, từ đó, hạn chế tham nhũng trong thi hành án, bảo đảm quyền lợi của người được thi hành án. Bảo đảm thông tin về tài sản, thu nhập của người phải thi hành án, qua đó, hoàn thiện cơ chế phối hợp bảo vệ cưỡng chế thi hành án, hoàn thiện các thủ tục pháp lý bảo đảm quyền sở hữu của người được thi hành án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan sau khi được thi hành án.
Người được thi hành án được bảo đảm quyền bình đẳng trong tiếp cận với cơ quan thi hành án dân sự thông qua các hình thức hỗ trợ pháp lý, được cập nhật tiến độ thi hành thông qua các ứng dụng công nghệ phù hợp. Hơn nữa, việc bổ sung quy định này được thiết kế theo hướng không dồn gánh nặng lên vai người được thi hành án, mà chia thành các trường hợp:
Trường hợp 1: Quy định theo hướng việc xác minh vừa là quyền lựa chọn của đương sự, vừa là nghĩa vụ. Đương sự có thể lựa chọn tự mình hoặc thuê dịch vụ do thừa phát lại, người đại diện… để xác minh điều kiện thi hành án. Nếu cần, vẫn có thể lựa chọn yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự tiến hành xác minh (người được thi hành án chịu chi phí). Quy định này vừa bảo đảm quyền, nghĩa vụ của đương sự, vừa tạo điều kiện thực hiện chủ trương xã hội hóa một số hoạt động thi hành án.
Trường hợp 2: Quy định phù hợp với điều kiện, khả năng thực hiện xác minh của các đối tượng, bảo đảm tính khả thi. Theo đó, sẽ chia theo các tình huống tùy thuộc vào điều kiện của người được thi hành án (người được thi hành án thuộc trường hợp đối tượng khó khăn, gia đình chính sách thì cơ quan thi hành án dân sự có trách nhiệm thực hiện việc xác minh; trường hợp người được thi hành án không phải đối tượng khó khăn, gia đình chính sách thì trước hết, có quyền tự mình hoặc thuê dịch vụ do thừa phát lại cung cấp để xác minh điều kiện thi hành án. Nếu họ không tự mình tìm kiếm được thông tin về tài sản, tài khoản, thì có yêu cầu, lúc đó cơ quan thi hành án dân sự đóng vai trò đại diện cho quyền lực nhà nước để tiếp nhận yêu cầu của người được thi hành án).
Trường hợp 3: Thiết kế một số điều luật để bảo đảm, hỗ trợ cho việc thực hiện quyền, nghĩa vụ xác minh của người được thi hành án, ví dụ như:
- Bổ sung quy định buộc người phải thi hành án kê khai thông tin và cơ quan, tổ chức quản lý tài sản, tài khoản cung cấp thông tin; kiểm định tính chính xác của thông tin do người phải thi hành án, cơ quan, tổ chức cung cấp; kèm theo chế tài xử lý nghiêm minh nếu không thực hiện hoặc kê khai gian dối.
- Bổ sung vai trò của thừa phát lại (hiện cả nước đã có hơn 400 thừa phát lại và sẽ tiếp tục được bổ sung thời gian tới), người đại diện trong thi hành án dân sự (có thể là luật sư) để thuê thực hiện xác minh (thay vì hiện nay chỉ trông chờ vào chấp hành viên, mà chấp hành viên thì không thể dễ dàng tăng được nhiều biên chế).
- Bổ sung quy định trách nhiệm của các cơ quan khi được đề nghị cung cấp thông tin (tương tự như quy định hiện hành của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015).
Trường hợp 4: Chính phủ hiện đang thực hiện chuyển đổi số mạnh mẽ, các cơ sở dữ liệu đang dần được hoàn thiện và cung cấp cho người dân, doanh nghiệp khai thác thông tin. Do đó, cơ sở hạ tầng hiện cũng đã hỗ trợ rất nhiều cho người được thi hành án trong việc tìm kiếm thông tin, xác minh điều kiện thi hành án.
Thứ ba, về tạm ứng chi phí cưỡng chế thi hành án: Theo Điều 5 Bộ luật Thi hành án toàn cầu, chi phí thi hành án do người phải thi hành án chi trả nhưng người được thi hành án phải tạm ứng số tiền đó trước, trừ trường hợp khác theo quy định của pháp luật[9]. Tuy nhiên, trong bối cảnh kinh tế - xã hội của Việt Nam hiện nay, việc yêu cầu người được thi hành án tạm ứng trong mọi trường hợp là khó khả thi, mà chỉ nên quy định mang tính khuyến khích những người được thi hành án có điều kiện kinh tế thực hiện tạm ứng nhằm đẩy nhanh tiến độ thi hành án và giảm bớt gánh nặng cho ngân sách nhà nước.
2.2. Tăng cường trách nhiệm của đương sự trong thi hành án dân sự, tăng chế tài xử lý đối với các hành vi vi phạm, chống đối, chây ỳ thi hành án
Thứ nhất, hoàn thiện cơ chế người phải thi hành án phải chịu trách nhiệm thi hành đối với toàn bộ tài sản của mình; có nghĩa vụ kê khai tài sản và pháp luật có chế tài để yêu cầu người phải thi hành án kê khai tài sản, thu nhập; trường hợp cố tình đưa mình vào tình trạng phá sản để trốn tránh nghĩa vụ thi hành án, che giấu hoặc làm hư hỏng tài sản, cản trở sai trái, đe dọa, bạo lực, chống đối người thi hành công vụ trong thi hành án dân sự phải bị xử lý nghiêm theo quy định. Người phải thi hành án được bảo đảm những quyền lợi cơ bản của mình như bảo đảm sinh kế cho bản thân họ và gia đình, được duy trì một số loại tài sản mà không thể bị kê biên; có cơ chế phù hợp xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án, hoặc đình chỉ thi hành.
Thứ hai, quy định rõ nghĩa vụ, trách nhiệm của đương sự phải thực hiện các thủ tục để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trong quá trình thi hành án và hậu quả pháp lý đối với trường hợp đương sự không thực hiện các nghĩa vụ theo quy định. Ví dụ, hết thời hạn khởi kiện mà không khởi kiện thì cơ quan thi hành án dân sự xử lý tài sản theo quy định; người phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành hoặc cơ quan thi hành án dân sự đã hướng dẫn, yêu cầu đương sự thực hiện quyền của mình để bảo vệ quyền lợi mà cố tình không thực hiện thì cơ quan thi hành án dân sự có cơ chế kết thúc việc thi hành án.
Thứ ba, quy định rõ những hành vi vi phạm, cố tình chống đối, trì hoãn, trốn tránh, kéo dài việc tổ chức thi hành án làm cơ sở để xem xét trách nhiệm hành chính, hình sự theo quy định của pháp luật liên quan; nghĩa vụ, trách nhiệm của đương sự phải thực hiện các thủ tục để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trong quá trình thi hành án. Tuy nhiên, để tăng cường các chế tài xử lý hành vi vi phạm trong thi hành án dân sự, có thể dẫn đến việc đề xuất sửa đổi một số quy định của Bộ luật Hình sự, Luật Xử lý vi phạm hành chính và Nghị định số 82/2020/NĐ-CP ngày 15/7/2020 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp; hành chính tư pháp; hôn nhân và gia đình; thi hành án dân sự; phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã[10]. Do đó, khi sửa đổi, bổ sung Luật Thi hành án dân sự cần tính đến phương án sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hình sự và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan để bảo đảm tính đồng bộ, khả thi của các quy định pháp luật./.
Hoàng Thu Thủy
Vụ Nghiệp vụ 1, Tổng cục Thi hành án dân sự
[1]. The Global Code of Enforcement, https://www.uihj.com/downloads/global-code-of-enforcement/.
[2]. Theo pháp luật của một số nước như Singapore, Anh, Pháp, Nhật Bản, Hàn Quốc: Người được thi hành án có trách nhiệm cung cấp, tìm kiếm thông tin về tài sản của người phải thi hành án để yêu cầu Tòa án/cơ quan thi hành án dân sự/thừa phát lại xử lý. Trường hợp không có hoặc không tự mình tìm được thông tin thì người được thi hành án có đơn đề nghị Tòa án/cơ quan thi hành án dân sự ra lệnh cho các cơ quan, tổ chức cung cấp thông tin về điều kiện thi hành án của người phải thi hành án; buộc người phải thi hành án đến Tòa án để tuyên thệ và kê khai trước Tòa án... Người được thi hành án phải chịu chi phí để Tòa án/cơ quan thi hành án dân sự thực hiện các thủ tục này.
[3]. Về nguyên tắc, khi thực hiện các giao dịch dân sự, các đương sự tự do ý chí, tự nguyện cam kết, thỏa thuận, không ai có quyền ép buộc và khi xảy ra hậu quả, các bên phải tự chịu trách nhiệm, tự chứng minh các điều kiện để khắc phục các hậu quả, thực hiện quyền và nghĩa vụ, cơ quan nhà nước không có nghĩa vụ chứng minh, thực hiện thay.
[4]. Theo thống kê, trung bình ngân sách nhà nước phải chi trả cho khoản chi bồi dưỡng cho những người trực tiếp xác minh điều kiện thi hành án khoảng 500.000 đồng/một vụ việc thi hành án dân sự cho 01 lần xác minh. Giai đoạn 2020 - 2023, hệ thống thi hành án dân sự phải thi hành 901.682 việc theo yêu cầu. Với mức chi trung bình nêu trên, ngân sách nhà nước đã phải chi 450.841.000.000 triệu đồng để xác minh cho người được thi hành án. Trong khi đó, với 2.610.069 việc chủ động phải thi hành trong giai đoạn 2020 - 2023, ngân sách nhà nước đã phải chi 1.305.034.500.000 nghìn đồng cho công tác xác minh việc chủ động.
[5]. Theo số liệu từ tháng 10/2018 đến tháng 6/2023, chấp hành viên yêu cầu Tòa án giải quyết 1.660 việc; trong đó, 104 yêu cầu không được Tòa án thụ lý, phần lớn do chấp hành viên không thể cung cấp được các tài liệu, chứng cứ để chứng minh. Đồng thời, đến thời điểm lấy số liệu, Tòa án mới giải quyết được 571 việc, còn lại chưa giải quyết xong 985 việc cũng xuất phát từ việc đối tượng là chấp hành viên yêu cầu nên không thể phối hợp với Tòa án làm rõ được nguồn gốc pháp lý cũng như thực tế của tài sản); việc nhận tài sản để trừ vào tiền thi hành án; việc áp dụng biện pháp bảo đảm…
[6]. Một số bản án, quyết định về tín dụng, ngân hàng tuyên xử lý tài sản bảo đảm của người thứ ba (người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan) do người phải thi hành án không có khả năng thực hiện nghĩa vụ. Trường hợp người thứ ba không hợp tác trong việc xử lý tài sản, cơ quan thi hành án phải áp dụng biện pháp cưỡng chế. Khi đó, về bản chất, vai trò của người thứ ba có nghĩa vụ liên quan đã chuyển hóa thành người phải thi hành án.
[7]. Với các cơ chế bảo đảm, hỗ trợ cho họ trong việc thực hiện quyền của mình như quy định buộc người phải thi hành án kê khai thông tin và cơ quan, tổ chức quản lý tài sản, tài khoản cung cấp thông tin; xác minh tính chính xác của thông tin do người phải thi hành án, cơ quan, tổ chức cung cấp; kèm theo chế tài xử lý nghiêm minh nếu không thực hiện hoặc gian dối.
[8]. Quy trình của một số nước như Singapore, Anh, Nhật Bản, Hàn Quốc: Người phải thi hành án được hướng dẫn khai thông tin thu nhập, tài sản theo mẫu và cung cấp các tài liệu liên quan đến tài sản như ô tô, bất động sản, tài khoản ngân hàng và bảng kê trong 06 - 12 tháng trước… Bản thông tin tự kê khai này được gửi tới người được thi hành án, chấp hành viên để nghiên cứu trước và chuẩn bị các câu hỏi chất vấn, khai thác thông tin xác minh tài sản của người phải thi hành trong buổi tường trình trước Tòa án.
[9]. Điều 5 Bộ luật Thi hành án toàn cầu quy định nguyên tắc cơ bản trong thi hành án dân sự liên quan đến chi phí thi hành án: Chi phí thi hành án do người phải thi hành án chi trả, nhưng người được thi hành án phải tạm ứng số tiền đó trước, trừ trường hợp khác theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp thi hành án phá sản của người phải thi hành án, các chi phí thi hành án do người được thi hành án chi trả. Trường hợp thẩm phán cho rằng người được thi hành án đã lạm quyền khi cưỡng chế thì có thể hướng dẫn người được thi hành án chi trả chi phí cưỡng chế và bồi thường những tổn thất mà bên phải thi hành án gánh chịu. Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm rằng các chi phí thi hành án phải được ấn định, ổn định, minh bạch và hợp lý.
[10]. Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp; hành chính tư pháp; hôn nhân và gia đình; thi hành án dân sự; phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.
(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 2 (Số 409), tháng 7/2024)