1. Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về bảo vệ quyền con người, quyền công dân
1.1. Quyền của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự
Trong tố tụng hình sự, người bị buộc tội bao gồm người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo [1]. Quyền của người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được quy định trực tiếp tại khoản 1 Điều 58, khoản 2 Điều 59, khoản 2 Điều 60, khoản 2 Điều 61 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 được coi là những quyền tố tụng cụ thể của người bị buộc tội. Bên cạnh đó, từ góc độ bảo vệ quyền của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự thì trong hệ thống pháp luật quốc gia có quy định mang tính nguyên tắc, là cơ sở pháp lý quan trọng để cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và mọi cá nhân tôn trọng và tổ chức thực hiện. Hiến pháp năm 2013 và Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã ghi nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm cho các quyền của người bị buộc tội được thực hiện tốt trên thực tế, để những quyền đó thực sự là công cụ, phương tiện hữu hiệu bảo vệ lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội. Quyền của người bị buộc tội được quy định trong Hiến pháp năm 2013 và Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 sẽ tạo cơ sở pháp lý quan trọng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp đối với người bị buộc tội, các quyền đó là:
- Quyền suy đoán vô tội: Quyền suy đoán vô tội lần đầu tiên được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 và Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Điều này không chỉ khẳng định đây là một quyền hiến định đối với các hoạt động tố tụng hình sự, mà còn thể hiện sự hoàn thiện của hoạt động lập hiến đối với việc thiết lập những chế định bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền công dân trong tố tụng hình sự. Nội dung của nguyên tắc này được quy định tại khoản 1 Điều 31 Hiến pháp năm 2013 và Điều 13 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Đây cũng là một trong những quyền đặc biệt quan trọng vì nó liên quan trực tiếp đến quyền con người, quyền công dân của người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Quyền suy đoán vô tội đòi hỏi cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải thực hiện trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng hình sự quy định để xác định sự thật vụ án một cách khách quan. Trường hợp không đủ căn cứ để buộc tội hoặc không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo không có tội và phải trả tự do cho họ, đồng thời phải ra quyết định đình chỉ điều tra (trong giai đoạn điều tra), đình chỉ vụ án (trong giai đoạn truy tố hoặc xét xử) hoặc tuyên bố bị cáo vô tội (tại phiên tòa xét xử). Mọi nghi ngờ về tính xác thực của những chứng cứ dùng để chứng minh sự thật vụ án, nếu không thể làm sáng tỏ mặc dù cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã áp dụng các biện pháp cần thiết theo trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định, thì phải được giải thích và áp dụng pháp luật theo hướng có lợi cho người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo [2]. Như vậy, nhiệm vụ của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng phải bảo đảm quyền suy đoán vô tội được thực thi trên thực tế.
- Quyền bào chữa: Quyền bào chữa của người bị buộc tội được quy định tại khoản 4 Điều 31 Hiến pháp năm 2013, Điều 16 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Về phạm vi chủ thể được thực hiện quyền bào chữa không phải chỉ mình bị cáo như các bản Hiến pháp trước mà đã được mở rộng cho hầu hết các chủ thể, đó là người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo và quyền bào chữa không phải chỉ được thực hiện ở hoạt động xét xử như trước, mà được thực hiện ngay từ thời điểm người bị tình nghi bị bắt cho đến khi khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử; đồng thời mở rộng cả phạm vi chủ thể bào chữa, bao gồm luật sư hoặc người khác có khả năng bào chữa.
Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo có quyền tự mình hoặc nhờ người khác trình bày quan điểm của mình đối với việc buộc tội, đưa ra các chứng cứ cần thiết để chứng minh cho tội trạng của mình, đề nghị các cơ quan tiến hành tố tụng xem xét các tình tiết minh oan hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho mình theo quy định của pháp luật. Quyền bào chữa của người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo bao gồm “quyền tự bào chữa” và “quyền nhờ người khác bào chữa”, hai quyền này có thể song song cùng tồn tại mà không bị loại trừ lẫn nhau.
- Quyền được tranh tụng trong xét xử vụ án hình sự: Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm được ghi nhận tại khoản 5 Điều 103 Hiến pháp năm 2013, trên cơ sở đó, được cụ thể hóa thành những quy định tại Điều 26 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Đây cũng là lần đầu tiên nguyên tắc tranh tụng được ghi nhận ở tầm hiến định, là một nguyên tắc chi phối trực tiếp đến việc bảo đảm các quyền của bị can, bị cáo. Tranh tụng vừa là một quyền của người bị buộc tội, vừa là một nguyên tắc tố tụng mà các chủ thể tiến hành tố tụng có trách nhiệm phải thực hiện. Về bản chất, tranh tụng là một hoạt động tố tụng được thực hiện xuyên suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự, trong đó hoạt động xét xử là trọng tâm. Để thực hiện được hoạt động tranh tụng theo đúng bản chất của nó, đòi hỏi phải có sự bình đẳng giữa bên buộc tội và bên bị buộc tội, những người có quyền và lợi ích liên quan đến việc giải quyết vụ án trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu và tranh luận dân chủ trước Tòa án. Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho họ thực hiện các quyền đó nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án. Sự bình đẳng trước Tòa án vừa là yếu tố để bảo vệ quyền con người, vừa đồng thời là phương thức, thủ tục để bảo vệ pháp quyền; quyền bình đẳng trước Tòa án cũng nhằm bảo đảm sự bình đẳng về quyền lực. Khi đó, các quyền năng tố tụng sẽ được dành cho tất cả các bên, trừ khi có sự phân biệt được quy định bởi pháp luật và có thể giải thích một cách hợp lý, khách quan và không dẫn đến sự bất lợi cho một bên tham gia tố tụng. Tòa án phải đảm bảo chức năng xét xử như một vị trọng tài đứng giữa đưa ra quyết định phán xét tính hợp pháp của vụ án trên cơ sở tranh tụng của chức năng buộc tội và chức năng gỡ tội. Tuy nhiên, trên thực tế, hoạt động xét xử của Tòa án vẫn nghiêng về hoạt động thẩm vấn, mức độ tranh tụng chỉ ở giới hạn nhất định, đây cũng là hạn chế của mô hình tố tụng Việt Nam hiện nay, dẫn đến các quyền của người bị buộc tội chưa thật sự được bảo đảm.
- Quyền được xét xử kịp thời, công bằng, công khai: Quyền được xét xử kịp thời, công bằng, công khai được quy định tại khoản 2 Điều 31 Hiến pháp năm 2013, Điều 25 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Tòa án có trách nhiệm phải đưa người bị buộc tội ra xét xử đúng thời hạn luật định. Bởi lẽ, về nguyên tắc, Tòa án là cơ quan cuối cùng, cơ quan duy nhất có quyền đưa ra phán quyết về việc người bị buộc tội có tội hay không có tội. Do đó, việc đưa người bị buộc tội ra xét xử trong thời hạn luật định là vô cùng quan trọng đối với việc bảo đảm các lợi ích hợp pháp của họ, nhất là đối với những trường hợp bị cáo bị áp dụng biện pháp tạm giam thì xét xử đúng thời hạn luật định sẽ trực tiếp liên quan đến việc không kéo dài thời hạn tạm giam một cách vô lý, vì khi chưa có phán quyết chính thức của Tòa án về tội danh của người bị buộc tội, việc áp dụng biện pháp cưỡng chế làm hạn chế quyền tự do cá nhân của họ phải là biện pháp cuối cùng và duy nhất. Do đó, quyền được xét xử kịp thời trong thời hạn luật định được coi là một quyền hiến định của người bị buộc tội, cũng chính là thể hiện sự quan tâm, bảo vệ đối với quyền con người của người bị buộc tội của Nhà nước. Bên cạnh đó, xét xử công bằng cũng là một quyền cơ bản, trực tiếp tác động đến lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội. Theo đó, Tòa án là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp có trách nhiệm phải thực hiện quyền xét xử công bằng của người bị buộc tội. Quyền được xét xử công bằng vừa là một quyền độc lập, vừa là một quyền có quan hệ mật thiết, liên quan đến một số quyền khác của người bị buộc tội. Như vậy, để thực hiện quyền được xét xử công bằng, người bị buộc tội phải được đảm bảo thực hiện tốt một số quyền khác như quyền được bào chữa, quyền được tranh tụng, quyền được yêu cầu, quyền được suy đoán vô tội.
1.2. Bị hại và quyền của bị hại trong tố tụng hình sự
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định bị hại theo hướng mở rộng hơn đối tượng bao gồm cá nhân và pháp nhân (Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định chỉ có cá nhân). Phạm vi của đối tượng được hưởng quyền của bị hại không chỉ giới hạn là những bị hại trực tiếp của tội phạm mà còn được mở rộng ra cả đối tượng khác như: “Trường hợp bị hại chết, mất tích, bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì người đại diện thực hiện quyền và nghĩa vụ của người bị hại quy định tại Điều này. Trường hợp cơ quan, tổ chức là bị hại có sự chia, tách, sáp nhập, hợp nhất thì người đại diện theo pháp luật hoặc tổ chức, cá nhân kế thừa quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức đó có những quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều này” (khoản 5 Điều 62 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015).
Bị hại có quyền được thực hiện các biện pháp hợp pháp để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình theo quy định tại khoản 2 Điều 62 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Như vậy, trên cơ sở phân tích các quy định về quyền tố tụng của người bị hại có thể nhận thấy, so với Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 thì Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã có rất nhiều quy định mới để bảo vệ tốt hơn quyền của bị hại trong tố tụng hình sự. Tuy nhiên, so với người bị buộc tội, quyền của người bị hại chủ yếu liên quan đến giai đoạn xét xử, hơn nữa, xét về quyền, trong giai đoạn điều tra, người bị hại được bảo đảm ở mức độ thấp hơn so với người bị buộc tội để bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong tố tụng hình sự. Chẳng hạn như bị can có quyền được nhận bản kết luận điều tra, trong khi đó bị hại chỉ được thông báo về kết quả điều tra. Thêm vào đó, khả năng nhận được tiền bồi thường thiệt hại mà Tòa án đã tuyên trong bản án, quyết định đối với bị hại trên thực tế là không cao vì nhiều lý do nên thường kéo dài về thời gian.
2. Một số kiến nghị
Pháp luật tố tụng hình sự có vị trí quan trọng trong việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Tuy nhiên, trong thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng hình sự đã phát sinh nhiều hạn chế, thiếu sót gây khó khăn, vướng mắc cho các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và các chủ thể khác khi tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng hình sự. Một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã bộc lộ những điểm hạn chế cần được nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung, cụ thể:
Thứ nhất, Điều 7 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “Mọi hoạt động tố tụng hình sự phải được thực hiện theo quy định của Bộ luật này. Không được giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử ngoài những căn cứ và trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định”. Điều luật này chỉ quy định mọi hoạt động tố tụng hình sự của các chủ thể nêu trên phải được tiến hành theo quy định của Bộ luật. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện các hoạt động tố tụng, nếu cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng có những hành vi vi phạm pháp luật thì chưa được đề cập trong nguyên tắc này. Vì vậy, Điều 7 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 nên bổ sung thêm như sau: “Mọi hoạt động tố tụng hình sự phải được thực hiện theo quy định của Bộ luật này. Không được giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử ngoài những căn cứ và trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định. Mọi trường hợp vi phạm pháp luật trong quá trình tố tụng sẽ bị xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật”.
Thứ hai, Điều 18 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định về trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự: Khi phát hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm khởi tố vụ án, áp dụng các biện pháp do Bộ luật này quy định để xác định tội phạm và xử lý người phạm tội, pháp nhân phạm tội. Bên cạnh đó, tại khoản 4 Điều 153 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: Hội đồng xét xử ra quyết định khởi tố hoặc yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố vụ án hình sự nếu qua việc xét xử tại phiên tòa mà phát hiện có việc bỏ lọt tội phạm. Điểm a khoản 1 Điều 4 Bộ luật này quy định, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng gồm cơ quan tiến hành tố tụng và cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, mà theo điểm c khoản 1 Điều 34 thì Tòa án là cơ quan tiến hành tố tụng. Như vậy, theo nội dung của Điều 15 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì Tòa án có nghĩa vụ chứng minh tội phạm và quy định của Điều 18 và khoản 4 Điều 153 nêu trên thì Tòa án (Hội đồng xét xử) có trách nhiệm khởi tố vụ án khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm. Hai quy định này của Bộ luật Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đều dẫn đến tình trạng “Tòa án vừa đá bóng vừa thổi còi”. Việc Tòa án phải chứng minh tội phạm, khởi tố vụ án sẽ khiến cho Tòa án trở thành chủ thể thực hiện hoạt động buộc tội, tức là Tòa án thực hiện chức năng buộc tội, vốn thuộc về Viện kiểm sát. Điều này mâu thuẫn với chức năng xét xử vì Tòa án luôn thể hiện vai trò trọng tài, tính trung lập, phán quyết của Tòa án trong nguyên tắc tranh tụng (Điều 26 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015). Như vậy, để bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử thì Tòa án phải độc lập với các bên buộc tội và gỡ tội nên cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần nghiên cứu, sửa đổi Điều 15, Điều 18 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 theo hướng Tòa án không có nghĩa vụ phải thực hiện những hoạt động này. Theo đó, Điều 15 nên được sửa đổi theo hướng Tòa án không có nghĩa vụ phải chứng minh tội phạm. Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan điều tra hoặc cơ quan được giao nhiệm vụ điều tra, Viện kiểm sát. Điều 18 nên sửa đổi theo hướng xóa bỏ trách nhiệm khởi tố vụ án của Tòa án, đồng thời, xóa bỏ khoản 4 Điều 153 nêu trên về thẩm quyền khởi tố vụ án của Hội đồng xét xử.
Thứ ba, theo Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải chỉ định người bào chữa cho người bị kết án 20 năm tù, tù chung thân, tử hình; người có nhược điểm về thể chất, tâm thần hoặc người dưới 18 tuổi. Quy định này mang tính tùy nghi, chưa xác định rõ trách nhiệm của từng cơ quan tiến hành tố tụng, các cơ quan này thường “đùn đẩy” trách nhiệm cho cơ quan tiếp theo nên hầu hết bị can, bị cáo trong các trường hợp này đều bị “tước mất” quyền bào chữa ở các giai đoạn tố tụng. Do vậy, cần phải quy định cụ thể từng cơ quan trong từng giai đoạn giải quyết vụ án của mình phải có trách nhiệm thực hiện việc chỉ định người bào chữa. Do đó, các cơ quan có thẩm quyền nên nghiên cứu, chỉnh sửa Điều 76 như sau:
“Điều 76. Chỉ định người bào chữa
1. Trong các trường hợp sau đây nếu người bị buộc tội, người đại diện hoặc người thân thích của họ không mời người bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong từng giai đoạn tố tụng thuộc thẩm quyền giải quyết của mình phải chỉ định người bào chữa cho họ...
2. Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong từng giai đoạn tố tụng thuộc thẩm quyền giải quyết của mình phải yêu cầu hoặc đề nghị các tổ chức sau đây cử người bào chữa cho các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này...”.
Thứ tư, để bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử và phân định rõ chức năng buộc tội của Viện kiểm sát với chức năng gỡ tội của Tòa án, khi xét xử, Viện kiểm sát trình bày bản cáo trạng và đặt các câu hỏi đối với bị cáo và những người tham gia tố tụng khác; trong quá trình xét hỏi, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác cũng có quyền hỏi; bị cáo có thể đặt câu hỏi đối với những người tham gia tố tụng khác; thẩm phán chủ tọa phiên tòa chỉ điều khiển việc xét hỏi, chỉ đặt câu hỏi đối với kiểm sát viên, người bào chữa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác khi thật cần thiết, chấp nhận hoặc bác bỏ những câu hỏi hoặc yêu cầu người bị hỏi không phải trả lời vì câu hỏi và câu trả lời có thể làm lộ bí mật nhà nước hoặc xâm phạm nghiêm trọng đến thuần phong mỹ tục.
Đại học Kiểm sát Hà Nội
[2]. Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2015, tr.21.