1. Cách thức lập pháp luật hợp đồng Việt Nam - Trung Quốc
Việt Nam và Trung Quốc có rất nhiều điểm tương đồng về mặt thể chế kinh tế. Trên phương diện pháp luật, hai nước trong thời gian dài đều chịu ảnh hưởng của hệ thống pháp luật Liên Xô cũ, đặc biệt là hệ thống pháp luật điều chỉnh quan hệ kinh tế. Mặc dù vậy, trên phương diện luật hợp đồng, hai nước cũng có những điểm khác biệt.
1.1. Sự lựa chọn mô hình luật hợp đồng của Việt Nam
Ý thức được tầm quan trọng của pháp luật hợp đồng trong điều chỉnh quan hệ kinh tế trong nền kinh tế thị trường, Việt Nam khi bắt tay vào tiến hành công cuộc đổi mới năm 1986 đã chú trọng tới ban hành các văn bản pháp luật, pháp quy điều chỉnh quan hệ hợp đồng. Năm 1989 và 1991, Pháp lệnh hợp đồng kinh tế và Pháp lệnh hợp đồng dân sự lần lượt được ban hành và có hiệu lực. Hai pháp lệnh này điều chỉnh quan hệ hợp đồng kinh tế và hợp đồng dân sự. Ngoài ra việc ký kết, thực hiện hợp đồng trong một số lĩnh vực hoặc ngành nghề cụ thể lại chịu sự phối hợp điều chỉnh của các văn bản pháp luật hoặc các văn bản pháp quy khác của Chính phủ[1]. Năm 1995, Bộ luật Dân sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được thông qua với phần thứ 3 quy định về Nghĩa vụ dân sự và Hợp đồng dân sự. Với việc thông qua Bộ luật Dân sự, Pháp lệnh Hợp đồng dân sự đã chính thức hết hiệu lực. Ngày 14/6/2005, Kỳ họp thứ 7 Quốc Hội khóa 11 đã thông qua Bộ luật Dân sự sửa đổi, Bộ luật dân sự quy định địa vị pháp lý, chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác; quyền, nghĩa vụ của các chủ thể về nhân thân và tài sản trong các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, lao động (sau đây gọi chung là quan hệ dân sự)[2]. Điều này đã chỉ rõ, Bộ luật Dân sự điều chỉnh tất cả các quan hệ dân sự (theo nghĩa hẹp) và các quan hệ thương mại hoặc kinh tế, lao động (theo nghĩa rộng). Những nội dung cơ bản phần thứ ba Nghĩa vụ dân sự và Hợp đồng dân sự của Bộ luật Dân sự Việt Nam tương đương với phần nguyên tắc chung của luật trái quyền[3], phần này đã quy định những nguyên tắc cơ bản trong việc ký kết, thực hiện, sửa chữa và huỷ bỏ hợp đồng, thể hiện đầy đủ những nội dung, đặc điểm của hợp đồng, tương đương với những nguyên tắc cơ bản của hợp đồng[4]. Ngoài ra, Bộ luật này cũng quy định một cách cụ thể về các loại hợp đồng dân sự thông dụng, tương đương với phần phân loại các hợp đồng[5]. Ngoài phần các nguyên tắc về trái quyền, Bộ luật Dân sự Việt Nam còn quy định về các nội dung khác ngoài hợp đồng[6]. Bộ luật Dân sự Việt Nam đã quy định một phần riêng về quan hệ hợp đồng, nội dung thể hiện sự điều chỉnh thống nhất và đầy đủ quan hệ hợp đồng, có kết cấu gần với pháp luật của các quốc gia có hệ thống pháp luật châu Âu lục địa. Ngoài ra, trước đòi hỏi của quá trình gia nhập tổ chức thương mại thế giới, để hội nhập tốt hơn vào nền kinh tế quốc tế, cùng với việc thông qua Bộ luật Dân sự mới, ngày 10/5/1997, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Luật Thương mại mới, thay thế Luật Thương mại cũ. Luật Thương mại mới gồm 9 chương với 324 điều quy định phần chung, mua bán hàng hoá, cung cấp dịch vụ, xúc tiến thương mại, hoạt động trung gian thương mại, các hoạt động thương mại khác, chế tài thương mại và giải quyết tranh chấp thương mại, xử lý vi phạm thương mại, điều khoản thi hành. Luật Thương mại Việt Nam hoàn toàn điều chỉnh các hoạt động thương mại. Do đó, Việt Nam đã hình thành mô hình lập pháp pháp luật dân sự - thương mại tách rời.
Nghị quyết 49/NQ/TƯ của Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam về chiến lược cải cách tư pháp đã xác định rõ: Để bổ sung những lỗ hổng của pháp luật, để nhằm thúc đẩy áp dụng pháp luật một cách thống nhất, cần phải tăng cường tổng kết thực tiễn án lệ, đưa án lệ trở thành nguồn của Toà án. Như vậy, pháp luật Việt Nam ngoài văn bản pháp luật, nghị định của Chính phủ, thông tư của các bộ, ngành và giải thích tư pháp cũng được coi là nguồn của pháp luật hợp đồng[7].
1.2. Sự lựa chọn mô hình Luật Hợp đồng của Trung Quốc
Những năm 80 khi bắt đầu công cuộc cải cách mở cửa, Trung Quốc đã ban hành Luật Hợp đồng kinh tế, Luật Hợp đồng kinh tế nước ngoài, Luật Hợp đồng kỹ thuật và hệ thống các văn bản hướng dẫn nhằm cụ thể hoá các luật trên, có tác dụng tích cực trong việc thúc đẩy quan hệ giao lưu kinh tế thương mại phát triển. Nhưng cùng với sự phát triển không ngừng của kinh tế thị trường, 3 bộ luật trên và các văn bản hướng dẫn có liên quan đã không còn phù hợp và đã bị thay thế bằng các văn bản pháp luật mới. Năm 1999, Trung Quốc ban hành Luật Hợp đồng thống nhất” và hệ thống văn bản Giải thích tư pháp đối với luật hợp đồng 1 và 2. Trước đó, năm 1986 Trung Quốc đã thông qua Nguyên tắc Luật dân sự và Ý kiến về một số vấn đề đối với các quy định về hợp đồng trong nguyên tắc luật dân sự của Toà án nhân dân tối cao, Luật đảm bảo và Ý kiến về giải thích tư pháp đối với các quy định của hợp đồng đảm bảo; Luật bảo hiểm và những văn bản pháp luật có liên quan tới bảo hiểm và hợp đồng bảo hiểm[8]... Như vậy, nguồn của pháp luật hợp đồng Trung Quốc bao gồm: (1) Hệ thống văn bản pháp luật; (2) Hệ thống văn bản giải thích pháp luật của từng loại hợp đồng cụ thể; (3) Hệ thống văn bản giải thích các án lệ. Ngoài bộ phận cấu thành pháp luật nói trên, ở Trung Quốc, hệ thống văn bản pháp quy mang tính địa phương do chính quyền các tỉnh, thành phố, khu tự trị và các thành phố có quy mô lớn do Quốc vụ viện phê chuẩn thành lập, ban hành và công bố có liên quan tới các loại hợp đồng đặc thù cũng được coi là nguồn của pháp luật hợp đồng. Theo thống kê, Quốc vụ viện và các Bộ, Ngành có liên quan của Trung Quốc đã ban hành khoảng hơn 400 văn bản pháp luật, pháp quy điều chỉnh quan hệ hợp đồng[9].
Tóm lại, nhìn từ góc độ quá trình phát triển lập pháp đối với luật hợp đồng của Việt Nam thì luật hợp đồng Việt Nam có đặc trưng riêng: Một là, Bộ luật Dân sự mới và Luật Thương mại mới cùng tồn tại, thực hiện mô hình luật dân sự, thương mại riêng rẽ, hai luật này đã điều chỉnh hoạt động dân sự và hoạt động thương mại nói chung và nội dung của hợp đồng dân sự và hợp đồng thương mại nói riêng. Hai là, Bộ luật Dân sự là luật cơ bản bao trùm những nguyên tắc cơ bản của hợp đồng dân sự và hợp đồng thương mại, mà không ban hành Luật hợp đồng riêng. Ba là, trong điều chỉnh quan hệ hợp đồng, cần phân biệt rõ hợp đồng thương mại hay hợp đồng dân sự, nếu là hợp đồng thương mại thì ưu tiên sử dụng những quy định đặc thù liên quan tới hợp đồng của Luật Thương mại, trong trường hợp Luật Thương mại không có những quy định có liên quan, thì sử dụng các quy định liên quan tới hợp đồng dân sự ở trong Bộ luật Dân sự. Học giả Việt Nam đã từng chỉ ra, “trong điều chỉnh quan hệ thương mại, đầu tiên phải áp dụng luật thương mại với tư cách luật chuyên ngành được ban hành năm 2005, nếu luật chuyên ngành không quy định thì áp dụng các quy định có liên quan của Bộ luật Dân sự ban hành năm 2005”[10]. Qua phân tích Bộ luật Dân sự có thể thấy rõ các quy định về nguyên tắc liên quan tới hợp đồng được thống nhất quy định tại Bộ luật Dân sự, các quy định đặc thù của một số loại hợp đồng sẽ được quy định tại các luật riêng như: Luật thương mại, luật xây dựng, luật đất đai... Tóm lại, luật hợp đồng của Việt Nam có nhiều điểm tương đồng với pháp luật của quốc gia khác, đều tuân thủ nguyên tắc luật chung và luật riêng.
2. Một số nội dung cơ bản của pháp luật hợp đồng Việt Nam và Trung Quốc
Việt Nam và Trung Quốc trong một thời gian tương đối dài thực hiện chế độ kinh tế kế hoạch, do đó trong thời kỳ mới chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, thể chế kinh tế và hệ thống pháp luật có những điểm không tương thích. Xem xét quá trình phát triển pháp luật hợp đồng Việt Nam và Trung Quốc cho thấy, mặc dù pháp luật Việt Nam và Trung Quốc đều hết sức nhấn mạnh nguyên tắc tự do giao kết, nhưng nguyên tắc này không phải là tuyệt đối, mà chỉ mang tính chất tương đối, bởi vì pháp luật là công cụ quản lý của Nhà nước đối với hành vi của tất cả mọi người, mà luật hợp đồng là công cụ pháp lý để quản lý giao dịch giữa các chủ thể, do dó, luật hợp đồng phải bảo đảm nguyên tắc tự do của chủ thể này không được xâm phạm tới tự do hoặc lợi ích của chủ thể khác trong xã hội. Pháp luật hợp đồng Việt Nam và Trung Quốc đều thể hiện rõ đặc điểm này, đó chính là nhấn mạnh nguyên tắc tự do giao kết và cũng nhấn mạnh nguyên tắc can thiệp và hạn chế của tự do giao kết.
Giao kết và chấp nhận giao kết là cấu thành căn bản của giao kết hợp đồng, do vậy, pháp luật hợp đồng Việt Nam và Trung Quốc đều có những quy định cụ thể. Ngoài giao kết và chấp nhận giao kết, các quy định khác như thời gian, địa điểm, nội dung, hình thức hợp đồng cũng là những yếu tố ảnh hưởng tới hiệu lực của hợp đồng[11].
Thực hiện hợp đồng là một trong những điều khoản quan trọng nhất của một bản hợp đồng. Thông qua việc thực hiện hợp đồng, các bên có thể đạt được mục đích đặt ra. Để khiến cho hợp đồng có thể được thực hiện một cách thuận lợi, pháp luật hợp đồng Việt Nam và Trung Quốc đều quy định những nguyên tắc thực hiện hợp đồng một cách căn bản như: Thực hiện đúng cam kết, thực hiện đúng số lượng, chất lượng, chủng loại, thời gian, thanh toán... Hợp đồng thương mại là loại hợp đồng đặc thù, được ký kết giữa thương nhân với cá nhân hoặc giữa các thương nhân với nhau, hợp đồng có tính liên tục, tính tuần hoàn và quá trình thực hiện hợp đồng được kéo dài sẽ ảnh hưởng tới rất nhiều chủ thể, do đó, pháp luật Việt Nam và Trung Quốc đều nhấn mạnh nguyên tắc thực hiện hợp đồng trung thực. Chỉ có thông qua việc thực hiện hợp đồng trung thực và nguyên tắc thực hiện hợp đồng trên cơ sở hợp tác thì thương nhân mới thực hiện hợp đồng một cách thuận lợi, mới có thể đạt được mục tiêu lợi nhuận[12].
Bởi vì thực hiện hợp đồng là một quá trình, có liên quan tới chủ thể khác, do đó, pháp luật ngoài việc quy định pháp luật bảo vệ cho lợi ích hợp pháp của người thứ ba không bị xâm phạm và không xâm phạm lợi ích công cộng, pháp luật Việt Nam và Trung Quốc đều có quy định về bảo vệ quyền lợi của bên thứ ba. Ở chế độ quyền kháng nghị, pháp luật Việt Nam và Trung Quốc có quy định không giống nhau, nhưng quy định về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên thứ 3 là giống nhau[13].
Học giả Việt Nam và Trung Quốc đều cho rằng, hợp đồng là “để chỉ một loại thương lượng quy định về việc ký kết, thay đổi và chấm dứt hợp đồng”[14]. Như vậy có thể thấy rằng, thay đổi hợp đồng cũng là một trong những chế định quan trọng trong pháp luật hợp đồng. Pháp luật Việt Nam và pháp luật Trung Quốc đều có những quy định giống nhau về việc thay đổi và chấm dứt hợp đồng, trong trường hợp này quan hệ hợp đồng đều đã tồn tại, nhưng bởi vì có sự nhầm lẫn, hoặc thủ đoạn gian dối hay cưỡng ép khi giao kết hợp đồng khiến cho hợp đồng bị thay đổi. Pháp luật hai nước đều có những quy định giống nhau, bởi vì những nhân tố này đều khiến cho việc giao kết hợp đồng không công bằng và không có sự bình đẳng giữa các chủ thể với nhau. Thay đổi hợp đồng có trường hợp là hợp đồng đã thực hiện được một phần, nhưng xuất hiện tình hình mới, ảnh hưởng tới việc thực hiện hợp đồng hoặc ảnh hưởng tới lợi ích hợp pháp của một bên đều có thể khiến cho hợp đồng bị thay đổi.
Việc hủy bỏ hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam và Trung Quốc khiến cho việc thực hiện hợp đồng bị dừng lại. Pháp luật hai nước đều quy định một số trường hợp hủy bỏ hợp đồng đó là do thoả thuận hủy bỏ, hoặc theo quy định của pháp luật. Hậu quả pháp luật của việc hủy bỏ hợp đồng đều giống với hợp đồng vô hiệu đó chính là hai bên phải hoàn trả tài sản cho nhau hoặc hoàn trả giá trị tương đương của tài sản[15].
Hợp đồng vô hiệu và trách nhiệm do vi phạm hợp đồng đều là những chế định hết sức quan trọng của pháp luật hợp đồng. Điều 407 Bộ luật Dân sự Việt Nam quy định về các trường hợp dẫn tới hợp đồng vô hiệu trong đó bao gồm các quy định về giao dịch dân sự vô hiệu cũng dẫn tới hợp đồng vô hiệu và một số các trường hợp khác như: Sự vô hiệu của hợp đồng chính làm chấm dứt hợp đồng phụ hoặc do các bên thỏa thuận hợp đồng phụ không thể tách rời hợp đồng chính mà hợp đồng chính vô hiệu. Đối với hợp đồng thương mại, ngoài Bộ luật dân sự, luật thương mại cũng có những quy định có liên quan tới trách nhiệm bồi thường do vi phạm hợp đồng. Do Việt Nam là quốc gia có thể chế lập pháp dân sự thương mại tách rời, cho nên vấn đề vi phạm hợp đồng chủ yếu áp dụng các quy định của Luật thương mại. Trong khi đó, Trung Quốc áp dụng luật hợp đồng thống nhất cho nên trong vấn đề trách nhiệm do vi phạm hợp đồng dù là hợp đồng dân sự hay hợp đồng thương mại cũng đều do Luật dân sự quy định. Đây cũng là điểm khác biệt cơ bản giữa pháp luật hợp đồng Việt Nam và Trung Quốc. Đánh giá về chế định bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng, pháp luật nước nào tiến bộ hơn là một điều khó khăn, pháp luật của mỗi quốc gia đều có ưu điểm và nhược điểm.
Việc pháp luật Việt Nam quy định vấn đề vi phạm hợp đồng trong hợp đồng thương mại thì áp dụng quy định của luật thương mại là hết sức phù hợp, bởi hợp đồng thương mại được ký kết trong quá trình giao dịch thương mại, nên áp dụng quy phạm của luật thương mại là phù hợp. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng pháp luật, dễ dẫn tới hiện tượng tuỳ tiện, và việc thực hiện một cách phức tạp. Pháp luật Trung Quốc áp dụng chế định vi phạm trách nhiệm hợp đồng của hợp đồng dân sự và hợp đồng thương mại là thống nhất có ưu điểm là đơn giản, dễ dàng trong hoạt động tư pháp. Tuy nhiên, tồn tại một mâu thuẫn đó là “quá coi trọng nghĩa vụ thương mại đối với chủ thể phi thương mại hoặc làm giảm trách nhiệm thương mại đối với chủ thể thương nhân”.
Tóm lại, một số chế định cụ thể của pháp luật hợp đồng Việt Nam và Trung Quốc có những điểm giống nhau và khác nhau. Điểm khác biệt chủ yếu của pháp luật hợp đồng hai nước là do hai nước có cách thức lập pháp đối với luật hợp đồng khác nhau. Pháp luật mỗi quốc gia đều có những ưu điểm và nhược điểm như đã phân tích ở trên. Trong bối cảnh quan hệ thương mại hai nước đang ngày càng mật thiết, vấn đề tăng cường giao lưu pháp luật giữa hai nước giúp cho thương nhân hai nước có những hiểu biết nhất định về sự giống nhau và khác nhau trong quy định pháp luật hai nước về hợp đồng. Điều này giúp giảm thiểu những khó khăn, trở ngại và những chi phí phát sinh do sự thiếu hiểu biết của pháp luật hợp đồng hai nước dẫn đến trong quá trình ký kết các hợp đồng của các doanh nghiệp hai nước.
3. Một số điểm thiếu sót của pháp luật hợp đồng hai nước và những kiến nghị
Pháp luật hợp đồng Trung Quốc áp dụng mô hình luật đơn hành và giải thích tư pháp luật hợp đồng thống nhất điều chỉnh pháp luật hợp đồng thương mại, thực hiện tính thống nhất quy tắc điều chỉnh hợp đồng, trong quá trình áp dụng tăng sự đơn giản, tiện lợi, phù hợp với thực tiễn cuộc sống và yêu cầu của quá trình nhất thể hoá kinh tế của thế giới. Luật hợp đồng Trung Quốc ngoài pháp luật và giải thích tư pháp còn có hệ thống văn bản pháp quy có liên quan cùng điều chỉnh các quan hệ hợp đồng đặc thù. Nhìn từ truyền thống lập pháp, Trung Quốc là quốc gia áp dụng hệ thống luật thành văn, chịu ảnh hưởng của hệ thống pháp luật châu Âu lục địa, trong kết cấu nội bộ của Luật hợp đồng đã thể hiện tư duy của yêu cầu luật thành văn với tính logic nghiêm ngặt, phần riêng chia làm 15 loại hợp đồng điển hình. Còn những hợp đồng thương mại đặc thù, Trung Quốc áp dụng nguyên tắc luật cơ bản và luật đặc thù như luật hợp đồng và luật đảm bảo trong quy định về hợp đồng đảm bảo; luật hợp đồng và luật bảo hiểm trong quy định về hợp đồng bảo hiểm; luật hợp đồng và luật ngân hàng trong điều chỉnh hợp đồng tín dụng... Những quy định này đều thể hiện đầy đủ kết cấu và nội dung của luật hợp đồng trên cơ sở nguyên tắc “từ chung đến riêng”; “từ trừu tượng đến cụ thể”. Nhưng pháp luật Trung Quốc tồn tại một thiếu sót cơ bản đó là vì luật hợp đồng với tư cách là bộ phận cấu thành của luật dân sự cần phải được hình thành trên cơ sở lấy luật dân sự làm nền tảng, và luật hợp đồng làm quy định cụ thể hoặc trong quy định của Bộ luật dân sự có những chương trực tiếp quy định nội dung của hợp đồng. Trong mô hình lập pháp hiện nay của Trung Quốc thì không có bộ luật dân sự, chỉ có một bộ nguyên tắc luật dân sự, mà các điều khoản trong bộ luật nguyên tắc này tương đối sơ sài, với nội dung đơn giản, với chức năng chủ yếu chỉ là đại cương của bộ luật dân sự. Trong các quy định về hợp đồng, nguyên tắc luật dân sự quy định tại tiết 3 trái quyền nằm trong chương 5 Quyền lợi dân sự, quy định các khái niệm, thực hiện, đảm bảo, chuyển nhượng hợp đồng. Trong chương 6 phần trách nhiệm dân sự quy định những nội dung cơ bản về việc chịu trách nhiệm dân sự khi vi phạm hợp đồng, những nội dung này hiện nay đã được luật hợp đồng thể hiện và hoàn thiện. Chính vì thế, luật cơ bản của luật hợp đồng chính là bản thân luật hợp đồng, hiện nay, nguyên tắc luật dân sự không thể thay thế Bộ luật dân sự trở thành luật cơ bản của luật hợp đồng. Trong mối quan hệ thứ hai, nguyên tắc luật dân sự chỉ tồn tại về mặt hình thức, và không có tác dụng quy phạm đối với quan hệ hợp đồng.
Việt Nam trước khi ban hành Bộ luật Dân sự, luôn có hai pháp lệnh điều chỉnh quan hệ hợp đồng và đã xem nhẹ kết cấu logic luật hợp đồng là một bộ phận của luật dân sự. Nhưng sau khi Bộ luật Dân sự ra đời, đặc biệt là sau khi Bộ luật Dân sự năm 2005 (bổ sung và sửa đổi năm 2015) và Luật Thương mại năm 2005 được thông qua đã thay đổi triệt để những hạn chế trong điều chỉnh quan hệ hợp đồng. Phần thứ 3 của Bộ luật Dân sự năm 2005 là phần nguyên tắc chung, riêng, nguyên tắc hợp đồng và phân loại hợp đồng, các điều luật rõ ràng, chi tiết theo trật tự tầng thứ, nhiều điều luật quy định về nội dung hợp đồng, đã thể hiện địa vị của luật hợp đồng ở trong phần này. Đối với khái niệm của hợp đồng và các nội dung quy định cụ thể, đã thể hiện rõ vai trò điều chỉnh quan hệ hợp đồng của Bộ luật Dân sự mà không chia ra là hợp đồng kinh tế, hợp đồng dân sự theo nghĩa hẹp hay các loại hợp đồng khác. Quốc hội Việt Nam trong Quyết định số 45/2005/QH11 về việc thông qua Bộ luật Dân sự đã đưa những quy định chung của hợp đồng vào Bộ luật Dân sự, điều đó có nghĩa Bộ luật Dân sự đã có những quy định chung của hợp đồng, luật thương mại không cần phải có những quy định trùng lặp mà chỉ quy định những nội dung đặc thù của quan hệ thương mại.
Như vậy, có thể thấy rằng, Việt Nam trong bối cảnh luật dân sự - thương mại phân chia rõ ràng, đã hình thành luật dân sự là luật cơ bản, trong các phần, chương điều riêng có những quy định chung về luật hợp đồng, luật thương mại mới thông qua (2005) và các văn bản pháp luật có liên quan khác có những quy định bổ sung về các nội dung của các loại hợp đồng đặc thù, có đặc điểm hợp nhất điều chỉnh thống nhất quan hệ hợp đồng dân sự và hợp đồng thương mại. Đặc điểm lập pháp này đã điều chỉnh mối quan hệ giữa luật dân sự, luật thương mại và luật hợp đồng, thuận lợi cho việc quy định rõ trái quyền, nghĩa vụ dân sự và hợp đồng trong Bộ luật Dân sự. Phần nội dung và các quan hệ bên ngoài phù hợp với nguyên tắc từ chung đến riêng, từ trừu tượng đến cụ thể.
Như vậy, pháp luật hợp đồng Việt Nam và Trung Quốc đều theo nguyên tắc đi từ “luật cơ bản” đến “luật đặc thù”. Nhưng trong lĩnh vực luật hợp đồng, đặc biệt là hợp đồng thương mại thì pháp luật hai nước lại có sự khác biệt. Bởi vì, luật cơ bản của luật hợp đồng Việt Nam nằm ở mục 7 trong phần thứ 3 “nghĩa vụ và hợp đồng” của Bộ luật Dân sự. Luật Thương mại và các luật đơn hành khác là luật đặc thù. Nhưng Trung Quốc luật cơ bản là luật hợp đồng, đặc biệt là trong lĩnh vực hợp đồng thương mại. Các luật đơn hành khác là luật đặc thù. Trung Quốc đến nay vẫn chưa ban hành Bộ luật Thương mại và vẫn áp dụng mô hình lập pháp luật dân sự thương mại hợp nhất. Mặc dù trong quá trình cải cách luật hợp đồng của Việt Nam và Trung Quốc, hiện nay đều không phân biệt giữa hợp đồng dân sự và hợp đồng thương mại, nhưng do chủ thể và nội dung của hợp đồng không giống nhau, chính vì thế, trên thực tế, trên phương diện áp dụng pháp luật, việc phân biệt rõ hợp đồng dân sự và hợp đồng thương mại là cần thiết. Theo mô hình lập pháp của Việt Nam, chủ thể của hợp đồng thương mại được quy định rõ ràng hơn pháp luật Trung Quốc, bởi vì những khái niệm thương nhân, hành vi thương mại được quy định rõ ràng tại Luật thương mại. Nhưng luật Trung Quốc không có luật này, về mặt lý luận, vẫn hoàn toàn sử dụng lý luận chủ thể của luật dân sự.
Kết luận
Do Việt Nam và Trung Quốc đều chịu ảnh hưởng của hệ thống pháp luật châu Âu lục địa, trên phương diện chính trị, kinh tế, văn hoá đều có những nét tương đồng, nên trên phương diện pháp luật hợp đồng có rất nhiều những điểm chung. Khi nghiên cứu so sánh pháp luật hợp đồng giữa hai nước, có thể nhìn rõ những điểm giống nhau, đó là quy định của pháp luật hợp đồng hai nước, đặc biệt là pháp luật hợp đồng thương mại không ngừng được hoàn thiện trong thể chế kinh tế thị trường. Việt Nam và Trung Quốc đều có thời gian tương đối dài thực hiện thể chế kinh tế kế hoạch, chính vì vậy, khi mới chuyển sang kinh tế thị trường, có một giai đoạn, thể chế thị trường và pháp luật không phù hợp với quy luật phát triển của kinh tế thị trường. Cùng với kinh tế thị trường không ngừng đi sâu, đặc biệt là trong bối cảnh toàn cầu hoá, và xu thế nhất thể hoá kinh tế, pháp luật hai nước có sự thay đổi, xáo trộn rất lớn.
Với tư cách là một luật quan trọng trong nền kinh tế thị trường, pháp luật hợp đồng của Việt Nam và Trung Quốc cũng có sự thay đổi nhanh chóng cũng với sự thay đổi của thể chế thị trường. Điều khác biệt lớn nhất của pháp luật hợp đồng hai nước đó chính là Việt Nam xây dựng luật hợp đồng trở thành một bộ phận cấu thành của Bộ luật Dân sự, trong đó những đặc điểm đặc thù của hợp đồng thương mại do Luật Thương mại điều chỉnh. Trong bối cảnh luật dân sự và luật thương mại của Việt Nam cùng được sửa đổi và thông qua, Việt Nam đã xây dựng mô hình luật dân sự - thương mại tách rời về mặt lập pháp. Trung Quốc trong việc đáp ứng các đòi hỏi của thị trường đã ban hành luật hợp đồng thống nhất và các luật đơn hành điều chỉnh quan hệ hợp đồng, xây dựng mô hình luật dân sự thương mại hợp nhất.
Viện Pháp luật, Đại học Trung Sơn
1. Bộ luật Dân sự nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Lao động, Hà Nội, 2013;
2. Luật Thương mại nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Lao động, Hà Nội, 2014;
3. Dự thảo Bộ luật Dân sự sửa đổi nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
4. Phạm Duy Nghĩa (Chủ biên), Chuyên khảo Luật Kinh tế, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2004;
5. Đỗ Văn Đại, Luật Hợp đồng Việt Nam - Bản án và bình luận bản án, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011;
6. Nguyễn Thị Mai Phương, Thống nhất luật hợp đồng ở Việt Nam, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2005;
7. Nguyễn Như Phát (Chủ biên), Tìm hiểu luật so sánh, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1993;
8. Đinh Trung Tụng (Chủ biên), Bình luận những nội dung mới của Bộ luật Dân sự, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2005;
9. Đinh Thị Mai Phương, Đổi mới pháp luật hợp đồng ở Việt Nam giai đoạn hiện nay - Những yêu cầu về mặt lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị Quốc gia, 2005;
10. Nguyễn Đức Giao, Vị trí, vai trò của chế định hợp đồng trong Bộ luật dân sự Việt Nam, Thông tin khoa học pháp lý, Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp số 2 năm 2000;
11. Lê Hồng Hạnh, Khái niệm thương mại trong pháp luật Việt Nam và những bất cập trong thực tiễn áp dụng, Tạp chí Luật học số 2 năm 2000;
12. Dương Đăng Huệ, Luật thương mại và sự ảnh hưởng của nó đến sự tồn tại của pháp luật hợp đồng kinh tế ở nước ta, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 11 năm 1998;
13. Nguyễn Văn Luyện, Về mối quan hệ giữa luật dân sự, luật kinh tế và luật thương mại, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 12 năm 1999;
14. Phạm Duy Nghĩa, Về mối quan hệ giữa pháp luật thương mại, kinh tế và dân sự, Tạp chí Khoa học, Đại học Quốc Gia Hà Nội, số 1 năm 1999;
15. Trí Úc, Một số vấn đề cơ bản về Bộ luật Dân sự Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 5 năm 1995;
16. Hoàn thiện pháp luật hợp đồng trong các văn bản pháp luật chuyên ngành, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp bản điện tử năm 2014;
17. Những bất cập và xu hướng hoàn thiện của pháp luật hợp đồng Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp bản điện tử năm 2014;
18. Nguyễn Viết Tý, Phương hướng hoàn thiện pháp luật kinh tế trong điều kiện có Bộ luật Dân sự, Luận văn Tiến sỹ, Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, 2002;
19. Nguyễn Ngọc Lan, Bất cập và giải pháp hoàn thiện pháp luật hợp đồng ở Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 5 năm 2014;
20. Vũ Thị Lan Anh, Hợp đồng thương mại và pháp luật về hợp đồng thương mại của một số nước trên thế giới, Tạp chí Luật học số 11 năm 2008;
21. Nguyễn Viết Tý, Vấn đề áp dụng Bộ luật Dân sự trong điều chỉnh quan hệ hợp đồng thương mại, Tạp chí Đại học Vân Nam số 5 năm 2009;
22. Thôi Kiến Viễn, Luật hợp đồng (Tái bản lần thứ 2), Nxb. Đại học Bắc Kinh, Bắc Kinh, 2013;
23. Dương Lập Tân, Luật Hợp đồng, Nxb. Đại học Bắc Kinh, Bắc Kinh, 2013;
24. Hàn Thế Viễn, Pháp luật Hợp đồng, Nxb. Giáo dục cao đẳng, Bắc Kinh, 2010;
25. Chu Lâm Tân (Chủ biên), Luật thương mại và doanh nghiệp kinh doanh, Nxb. Đại học Bắc Kinh, Bắc Kinh, 2010;
26. Lý Song Nguyên, Ôn Thế Dương (Chủ biên), So sánh luật dân sự, Nxb. Đại học Vũ Hán, Vũ Hán, 1998;
27. Chu Lâm Tân (Chủ biên), So sánh luật hợp đồng, Nxb. Đại học Lan Châu, Lan Châu, 1989;
28. Phan Vĩ, Nguỵ Giai, Lý Liên Bác, Nghiên cứu so sánh pháp luật hợp đồng Trung Quốc - Đông Nam Á, Nxb. Dân tộc Quảng Tây, Quảng Tây, 2012;
29. Những văn bản pháp luật pháp quy về hợp đồng nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, Nxb. Pháp luật, Bắc Kinh, 2014;
30. Hạ Phong Anh, Tương Hiểu Linh, Đổng Thư Bình, Nghiên cứu vấn đề cơ bản Luật hợp đồng, Nxb. Đại học Công an nhân dân, Bắc Kinh, 2012;
31. Lương Huệ Tinh, Những luận điểm quan trọng trong quá trình biên soạn Luật hợp đồng Trung Quốc, Tạp chí Luật học số 2 năm 1996;
32. Sử Hạo Minh, Suy nghĩ về việc hoàn thiện chế độ pháp luật hợp đồng ở nước ta, Tạp chí Khoa học xã hội Thiên Tân số 1 năm 1993;
33. Hoàng Chí Binh, Nghiên cứu so sánh chế độ vi phạm trách nhiệm hợp đồng trong pháp luật hợp đồng Việt Nam - Trung Quốc, Tạp chí Truyền Kỳ số 14 năm 2013;
34. Trần Tiểu Quân, Dịch Quân, Bàn về sự phát triển của pháp luật hợp đồng Trung Quốc, Tạp chí nghiên cứu luật thương mại số 6 năm 1999;
35. Hoàng Mạc Ái, So sánh và học tập pháp luật hợp đồng Trung Quốc - Singapore, Tạp chí Thời đại Thương Mại số 11 năm 2014;
36. Vương Lợi Minh, Chúng ta cần Bộ luật Dân sự như thế nào?, Tạp chí Báo cáo Trung Quốc số 1 năm 2015.
1. Thực hiện đúng hợp đồng, đúng đối tượng, chất lượng, số lượng, chủng loại, thời hạn, phương thức và các thỏa thuận khác;
2. Thực hiện một cách trung thực, theo tinh thần hợp tác và có lợi nhất cho các bên, đảm bảo tin cậy lẫn nhau;
3. Không được xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.
1. Một bên có quyền hủy bỏ hợp đồng và không phải bồi thường thiệt hại trong trường hợp sau đây:
a. Bên kia vi phạm hợp đồng là điều kiện hủy bỏ mà các bên đã thỏa thuận;
b. Bên kia vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ hợp đồng;
c. Trường hợp khác do luật quy định;
Luật Hợp đồng nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Điều 94 Quy định “Trong những trường hợp sau đây có thể hủy bỏ hợp đồng”:
1. Do điều kiện bất khả kháng dẫn đến không thực hiện được mục đích hợp đồng;
2. Trước khi thực hiện xong hợp đồng, bên kia cho thấy hoặc có những biểu hiện cho thấy không thực hiện nghĩa vụ chủ yếu;
3. Bên kia có hành vi kéo dài nghĩa vụ phải thực hiện, xong hết thời gian kéo dài hợp lý vẫn không thực hiện;
4. Bên kia kéo dài nghĩa vụ thực hiện hoặc có hành vi vi phạm khác dẫn tới không thể thực hiện được mục đích hợp đồng;
5. Những trường hợp khác do pháp luật quy định;