1. Sự phát triển trong nhận thức và nội dung lãnh đạo của Đảng trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Từ trong lý luận và từ thực tiễn cách mạng nước ta đã khẳng định, kể từ khi ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn là lực lượng duy nhất được giao sứ mệnh lịch sử là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Ngày nay, sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội và trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã trở thành một nguyên tắc Hiến định; một đặc trưng riêng có của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bởi lẽ, sau khi ra đời (1930), Đảng ta đã kế thừa và phát triển truyền thống yêu nước, tinh thần bất khuất, ý chí tự lực tự cường của dân tộc lên một tầm cao mới để xây dựng và tập hợp lực lượng; trực tiếp tổ chức và lãnh đạo các cuộc vận động, các phong trào cách mạng, lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách để làm cuộc Cách mạng Tháng Tám thành công; đập tan ách thống trị của thực dân, phong kiến và lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), đưa dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên độc lập, tự do; xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc, cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đảng trực tiếp khởi xướng đường lối đổi mới và đề ra các chủ trương, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp để xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong các văn kiện Đảng, nhất là trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta đã xác định có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo là một đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là một trong những phương hướng cơ bản mà toàn Đảng, toàn dân ta phải tập trung thực hiện. Cương lĩnh còn chỉ rõ “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước ban hành pháp luật; tổ chức, quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”[1]. Cương lĩnh cũng xác định rõ các phương thức lãnh đạo và cầm quyền của Đảng đối với Nhà nước và xã hội: “Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu. Đảng thường xuyên nâng cao năng lực cầm quyền và hiệu quả lãnh đạo, đồng thời phát huy mạnh mẽ vai trò, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là bộ phận của hệ thống ấy. Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”[2]. Với cách tiếp cận đó cho thấy, sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được thể hiện trên các nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, Đảng lãnh đạo công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền của các nước và xu thế phát triển của thời đại để đề ra các chủ trương, chính sách lớn, các mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ, giải pháp xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; phân công, giao trách nhiệm cho các chủ thể trong tổ chức thực hiện để đạt được các mục tiêu đề ra. Các chủ trương, chính sách đó được thể hiện trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991, bổ sung, phát triển năm 2011); các văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc, nhất là Nghị quyết Đại hội XI, XII và XIII và thể hiện tập trung nhất tại Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới; các nghị quyết về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị; công tác tổ chức bộ máy cán bộ và được thể chế hóa, cụ thể hóa trong Hiến pháp và các văn bản luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội phổ biến, điển hình... Các chủ trương, chính sách đúng đắn này trở thành kim chỉ nam mang tính định hướng về chính trị và được bảo đảm thực hiện bằng quyền lực chính trị nhằm từng bước xây dựng và hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phù hợp với điều kiện thực tiễn nước ta, cả trước mắt và lâu dài.
Thứ hai, Đảng lãnh đạo, chỉ đạo việc thể chế hóa, cụ thể hóa các chủ trương, chính sách của Đảng nói chung, các mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ và giải pháp xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói riêng thành Hiến pháp và pháp luật gắn với công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật. Nội dung lãnh đạo của Đảng trong quá trình thể chế hóa, cụ thể hóa thể hiện trên các mặt: (i) Đảng lãnh đạo hoàn thiện quy trình xây dựng luật, pháp lệnh và các văn bản dưới luật. (ii) Đảng cho định hướng về Chương trình xây dựng pháp luật của cả nhiệm kỳ Quốc hội. (iii) Đảng cho chủ trương, định hướng đối với những chính sách pháp luật lớn, quan trọng, phức tạp. (iv) Đảng giao trách nhiệm cho Đảng đoàn Quốc hội, Ban cán sự đảng Chính phủ lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan chức năng nghiên cứu, khẩn trương thể chế hóa, cụ thể hóa các chủ trương, chính sách lớn của Đảng thành luật pháp. (v) Đảng vận động, giáo dục, thuyết phục để phát huy đầy đủ vai trò của nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên trong việc nâng cao chất lượng công tác phản biện xã hội đối với quy trình lập pháp và giám sát việc thực hiện pháp luật; chú trọng bản lĩnh, ý thức chính trị, không bị chi phối, tác động bởi các hành vi không lành mạnh của bất cứ tổ chức, cá nhân nào trong quá trình giám sát, phản biện xã hội. (vi) Đảng lãnh đạo việc củng cố, kiện toàn, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác xây dựng pháp luật. Từ những định hướng chính trị đó, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020) đã quy định: Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh được xây dựng hằng năm trên cơ sở đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước (Điều 31). Các đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh phải dựa trên đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước (Điều 32). Một trong những nội dung phải tập trung thẩm định, thẩm tra đối với đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh và dự thảo luật, pháp lệnh là sự phù hợp của nội dung chính sách, dự thảo văn bản với đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước (các điều 39; 47, 58, 65, 92, 121, 130 và 139). Trên cơ sở đó, Đảng yêu cầu các cấp ủy, tổ chức đảng trong các cơ quan trình, cơ quan thẩm tra phải lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nghiêm việc xin ý kiến của Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng, Đảng Đoàn, Ban cán sự Đảng về các chính sách, vấn đề lớn, quan trọng tại các dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật ở các giai đoạn khác nhau của quy trình lập pháp. Việc không tuân thủ và chấp hành đầy đủ nội dung, quy trình lập pháp là một trong những căn cứ để kiểm tra, xử lý văn bản. Có thể nói, quá trình lãnh đạo việc thể chế hóa, cụ thể hóa là nội dung quan trọng, thể hiện sự cầm quyền bằng pháp luật, qua đó ý chí của Đảng được thực hiện bằng tất cả sức mạnh của luật pháp, được bảo đảm thực hiện bằng quyền lực nhà nước. Sự lãnh đạo của Đảng trong quá trình thể chế hóa, cụ thể hóa thông qua các chủ trương, định hướng lớn trong xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, Hiến pháp và các đạo luật cụ thể nói riêng là những bảo đảm cần thiết để hệ thống pháp luật ngày càng hoàn thiện; pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh, công bằng, không thiên vị, phản ánh đúng ý chí, nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp pháp của đông đảo nhân dân trong xã hội; loại trừ đến mức thấp nhất các biểu hiện “lạm dụng quyền lực”, “lợi ích nhóm” có thể bị “cài cắm” trong quá trình hoạch định luật pháp, chính sách, nhất là trong điều kiện “nhóm lợi ích” vận động phức tạp, thường tìm cách hướng lái chính sách hoặc lợi dụng chính sách để trục lợi, gây tổn hại đến lợi ích chung. Mục tiêu của quá trình đó là xây dựng cho được một hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, mở đường cho đổi mới sáng tạo, phát triển bền vững và cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật nghiêm minh, nhất quán, thống nhất trong cả nước. Để đạt được mục tiêu này, Đảng trực tiếp lãnh đạo quá trình tổng kết việc thi hành Hiến pháp và pháp luật; xây dựng, ban hành và triển khai thi hành Hiến pháp; các luật về tổ chức bộ máy nhà nước và các thiết chế trong hệ thống chính trị; về tôn trọng, ghi nhận, bảo vệ và bảo đảm thực hiện các quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, gắn phát triển kinh tế với thực hiện các chính sách xã hội nhằm bảo đảm an sinh xã hội; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Đồng thời, Đảng trực tiếp lãnh đạo việc triển khai thi hành Hiến pháp và pháp luật; lãnh đạo công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật, xây dựng ý thức thượng tôn Hiến pháp và pháp luật trong đời sống xã hội, bảo đảm để Nhà nước thực hiện chức năng quản trị công, quản lý mọi mặt của đời sống xã hội bằng pháp luật để mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hệ thống chính trị và toàn xã hội đều tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật; mọi công dân, người nước ngoài cư trú và làm việc tại Việt Nam đều phải tuân thủ và chấp hành Hiến pháp và pháp luật.
Thứ ba, Đảng lãnh đạo tổ chức Tổng tuyển cử thống nhất trong cả nước để nhân dân bằng lá phiếu của mình trực tiếp trao quyền lực cho Nhà nước để tạo nên tính chính danh của Nhà nước. Khi nước nhà độc lập, thống nhất, Đảng lãnh đạo công tác bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp để nhân dân bầu ra các đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Sự lãnh đạo của Đảng là bảo đảm quan trọng để nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước. Đặc biệt, với vai trò là một Đảng duy nhất cầm quyền và lãnh đạo Nhà nước và xã hội, Đảng thống nhất lãnh đạo công tác tổ chức bộ máy, cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ. Đảng thống nhất lãnh đạo việc đổi mới, sắp xếp và quản lý tổ chức bộ máy, biên chế của hệ thống chính trị. Bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung thống nhất của Trung ương, đồng thời, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của từng cấp, từng ngành, từng địa phương; xác định rõ trách nhiệm của tập thể và cá nhân, nhất là người đứng đầu. Đảng đề ra đường lối, chủ trương, chính sách, tiêu chuẩn, quy chế, quy định về công tác cán bộ và lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện thông qua các cấp uỷ, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên trong các cơ quan, tổ chức của hệ thống chính trị, các tổ chức kinh tế nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập. Đảng chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của hệ thống chính trị; trực tiếp quản lý đội ngũ cán bộ, trước hết là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các ngành, các cấp. Đảng quy định cụ thể việc phân công, phân cấp công tác quản lý cán bộ, bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử cho các cấp ủy, tổ chức đảng; đồng thời thường xuyên kiểm tra, giám sát việc tổ chức thực hiện của các ngành, các cấp. Đảng lãnh đạo và giới thiệu các nhân sự để các cơ quan dân cử bầu vào các chức danh lãnh đạo chủ chốt của Nhà nước; giới thiệu cán bộ có đủ điều kiện, tiêu chuẩn để bổ nhiệm, ứng cử vào các chức danh lãnh đạo, quản lý và giữ các chức vụ chủ chốt trong các cơ quan nhà nước và trong hệ thống chính trị nhằm xây dựng tổ chức bộ máy nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; xây dựng đội ngũ cán bộ vừa hồng, vừa chuyên, có đủ phẩm chất, năng lực, chuyên nghiệp, liêm chính, chí công, vô tư để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thông qua hoạt động của bộ máy nhà nước và đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước được chuyển tải đến với nhân dân và toàn xã hội để mọi người đều biết, qua đó tạo sự thống nhất trong nhận thức và đồng thuận trong triển khai thực hiện.
Thứ tư, Đảng lãnh đạo quá trình xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam bằng sự tự giác, phát huy tính tiền phong, gương mẫu và ý thức trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, của cấp ủy, tổ chức đảng hoạt động trong các cơ quan nhà nước, các tổ chức của hệ thống chính trị, tăng cường trách nhiệm cá nhân, nhất là của người đứng đầu. Sự lãnh đạo đó là bảo đảm cần thiết để Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật; các cán bộ, công chức, viên chức, đảng viên đều phải gương mẫu, tự giác trong tuân thủ, chấp hành nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật; xây dựng ý thức thượng tôn Hiến pháp và pháp luật trong đời sống Nhà nước và xã hội. Đảng sử dụng Nhà nước để thực hiện cương lĩnh, đường lối chính trị để bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; nhân dân làm chủ nhà nước, làm chủ xã hội; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đảng thực hiện việc kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua đội ngũ đảng viên và tổ chức đảng để quyền lực nhà nước phải được phân công, phối hợp một cách hiệu quả, được kiểm soát chặt chẽ, phòng chống tham nhũng, tiêu cực, lợi ích nhóm, nhất là trong công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, công tác cán bộ, công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án… Ngoài ra, thông qua đội ngũ cán bộ, đảng viên, Đảng động viên, khích lệ, tuyên truyền, vận động, thuyết phục để nhân dân tin tưởng vào chủ trương, chính sách, pháp luật, từ đó tự nguyện, tự giác học tập, tìm hiểu, tuân thủ và chấp hành Hiến pháp và pháp luật khi tham gia vào các quan hệ xã hội, tham gia giám sát, phản biện xã hội; giám sát việc tuân thủ và chấp hành các chủ trương, chính sách, pháp luật của đội ngũ cán bộ, đảng viên và các thiết chế trong hệ thống chính trị…
Thứ năm, Đảng lãnh đạo bằng công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật Đảng nghiêm minh, toàn diện đối với tổ chức đảng và đảng viên, bảo đảm để các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước được thể chế hóa, cụ thể hóa một cách đầy đủ, kịp thời; được tổ chức triển khai thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất trong cả nước trên nguyên tắc không có vùng cấm, không có ngoại lệ; kỷ luật đảng không thay thế kỷ luật hành chính, kỷ luật đoàn thể; xử lý kỷ luật hành chính phải đồng bộ với quy định xử lý kỷ luật của Đảng…
2. Một số giải pháp tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, theo tác giả tới đây cần thực hiện tốt các giải pháp sau:
Một là, tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng đối với công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm nâng cao nhận thức về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mà ý thức và lối sống thượng tôn Hiến pháp và pháp luật là tư tưởng chủ đạo trong hệ thống chính trị và toàn xã hội; đưa nội dung phù hợp về Hiến pháp và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam vào chương trình đào tạo, bồi dưỡng của hệ thống giáo dục quốc dân để xây dựng ý thức pháp quyền và ý thức tuân thủ, chấp hành nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật trong toàn xã hội. Đổi mới nội dung, đa dạng hóa các hình thức giáo dục, bồi dưỡng nâng cao nhận thức về Chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhất là các tư tưởng về Nhà nước và pháp luật; các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước nói chung, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói riêng để hình thành lối sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật; xây dựng ý thức thượng tôn Hiến pháp và pháp luật trong đời sống Nhà nước và xã hội. Việc học tập, tìm hiểu Hiến pháp và pháp luật phải trở thành nhu cầu tự thân, hằng ngày của mỗi người; ý thức thượng tôn Hiến pháp và pháp luật phải thống trị đời sống xã hội. Trước mắt, cần tập trung tuyên truyền, phổ biến để thống nhất nhận thức trong toàn xã hội về các đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ðẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về Hiến pháp và pháp luật, về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và yêu cầu, nhiệm vụ tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới. Tiếp tục quán triệt sâu sắc việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị; được tiến hành đồng bộ với thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hai là, quán triệt đầy đủ, thể chế hóa kịp thời và triển khai thực hiện nghiêm túc các chủ trương, chính sách của Đảng về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam gắn với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, trọng tâm là triển khai thực hiện có hiệu quả các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng: Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/ về một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25/10/2017 về tiếp tục đổi mới và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập và các kết luận về việc tiếp tục triển khai thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW, Nghị quyết số 19-NQ/TW và các kết luận, nghị quyết về tinh giản biên chế, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và thực hiện chính sách tiền lương. Chú trọng quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới; Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 17/11/2022 về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị trong giai đoạn mới; Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín ngang tầm nhiệm vụ.
Ba là, quán triệt và thực hiện nghiêm các quy định về trách nhiệm nêu gương gắn với học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và các chuẩn mực nghề nghiệp của cán bộ, công chức, viên chức. Thực hiện có hiệu quả công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; phòng chống các biểu hiện suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Tiếp tục nghiên cứu, phát triển tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước và pháp luật, về xây dựng đội ngũ cán bộ, về bảo đảm các quyền con người, quyền công dân trước yêu cầu của thực tiễn phát triển đất nước trong giai đoạn mới.
Bốn là, quán triệt và thực hiện nghiêm các quy định về phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực, phòng chống tham nhũng, tiêu cực, lợi ích nhóm trong toàn hệ thống chính trị, trọng tâm là quán triệt và triển khai thực hiện có hiệu quả các quy định của Bộ Chính trị: Quy định số 114-QĐ/TW ngày 11/7/2023 về kiểm soát quyền lực và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ; Quy định số 131-QĐ/TW ngày 27/10/2023 về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng và trong hoạt động thanh tra, kiểm toán; Quy định số 132-QĐ/TW ngày 27/10/2023 về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án và tới đây là quy định về kiểm soát quyền lực, phòng chống tham nhũng, tiêu cực, lợi ích nhóm trong công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Triển khai thực hiện có hiệu quả Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm chống lãng phí, Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở; các luật về tổ chức và hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội để phát huy đầy đủ vai trò, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận trong củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân để tạo sự đồng thuận xã hội, thắt chặt mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước, động viên nhân dân phát huy quyền làm chủ, hăng hái tham gia các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động cách mạng, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; tham gia xây dựng Đảng, chính quyền và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh…
Năm là, tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đáp ứng yêu cầu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới. Có cơ chế lựa chọn, đào tạo, thu hút, trọng dụng nhân tài; sàng lọc, thay thế kịp thời những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm pháp luật, đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp, bị xử lý kỷ luật, không còn uy tín đối với nhân dân. Thực hiện nghiêm, nhất quán Đảng lãnh đạo trực tiếp, toàn diện công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Làm tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng và đánh giá đúng cán bộ; coi trọng việc đánh giá phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống và quan hệ với nhân dân của cán bộ, nhất là tinh thần đấu tranh với các hiện tượng tiêu cực, quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Thực hiện tốt chế độ quản lý cán bộ, nhất là quản lý và bảo vệ chính trị nội bộ; đẩy mạnh công tác luân chuyển để đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện, thử thách cán bộ trong thực tiễn. Kiểm soát chặt chẽ quyền lực trong từng khâu của công tác cán bộ, nhất là đối với người đứng đầu ban cán sự đảng, cấp ủy đồng thời là thủ trưởng cơ quan, đơn vị.
Sáu là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật Đảng, nhất là trong đội ngũ cán bộ, đảng viên của toàn hệ thống chính trị từ trung ương đến cơ sở, bảo đảm để các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước được thực hiện nghiêm chỉnh, triệt để và thống nhất trong phạm vi cả nước, mọi hành vi vi phạm đều được phát hiện kịp thời, được xử lý nghiêm minh./.
TS. Đỗ Xuân Lân
Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam