Lao động di trú từ nông thôn đến thành thị ở Việt Nam, đặc biệt là lao động nữ là một trong những lực lượng lao động chịu nhiều thiệt thòi bởi mô hình kinh tế tăng trưởng nhanh hiện nay, mặc dù họ tham gia vào cả lực lượng lao động chính thức lẫn phi chính thức. Nhiều người di cư không được hưởng những quyền lợi từ các chính sách an sinh xã hội, bao gồm lao động, việc làm và giảm nghèo; bảo hiểm xã hội; bảo trợ xã hội; các dịch vụ xã hội cơ bản như y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch và tiếp cận thông tin. Bên cạnh đó là việc có thu nhập không ổn định và bấp bênh từ những công việc chỉ được ký hợp đồng lao động ngắn hạn hoặc thậm chí là không có hợp đồng. Vì vậy, cần thiết phải có các giải pháp bảo đảm quyền cho nhóm lao động này một cách tốt nhất.
Trong bài viết này, tác giả nêu định hướng bảo đảm quyền của lao động nữ di trú từ nông thôn đến thành thị ở Việt Nam, đồng thời, tập trung phân tích các giải pháp cụ thể nhằm tăng cường bảo đảm các quyền đặc trưng của nhóm lao động này.
1. Định hướng bảo đảm quyền của lao động nữ di trú từ nông thôn đến thành thị ở Việt Nam
1.1. Nâng cao nhận thức về bảo đảm quyền của lao động nữ di trú từ nông thôn đến thành thị
Cần phải coi lao động nữ di trú từ nông thôn đến thành thị là nhóm xã hội dễ bị tổn thương và phải được quan tâm, hỗ trợ, đồng thời, phải xem nhóm xã hội này là một vấn đề phát triển. Mặc dù, di cư có thể kéo theo các hệ quả xã hội nhất định (biến động về cư trú, trật tự xã hội, tệ nạn xã hội, quá tải của hệ thống cở sở hạ tầng đô thị), nhưng di cư rõ ràng là một vấn đề phát triển trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam. Từ góc độ nơi xuất cư, di cư là một lựa chọn của nhiều người trong lực lượng lao động muốn thay đổi nơi cư trú để có việc làm, tạo ra thu nhập cho bản thân, trợ giúp thu nhập gia đình. Ở góc độ nơi đến, lao động di cư là nguồn lao động bổ sung cần thiết, nhất là đối với các công việc lao động phổ thông trong các lĩnh vực sản xuất, dịch vụ đòi hỏi sử dụng nhiều lao động. Vì vậy, luồng di cư cần được xem là một nguồn lực kinh tế có đóng góp nhất định đối với tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo[1]. Chỉ đến khi luồng lao động di cư được đặt đúng với ý nghĩa của nó thì các quan điểm tiêu cực về di cư, kiểm soát và hạn chế di cư, thậm chí là có tính phân biệt đối xử với lao động di cư mới được xóa bỏ. Quan điểm này cần được thể hiện trong những văn kiện có ý nghĩa chiến lược ở cấp cao nhất của quốc gia để có thể trở thành một chủ trương chính thức đối với quản lý vấn đề phát triển là di cư trong nước.
1.2. Tăng cường hoàn thiện chính sách, pháp luật về bảo đảm quyền của lao động nữ di trú từ nông thôn đến thành thị
Cùng với các nhóm xã hội dễ bị tổn thương khác trong xã hội như trẻ em, người nghèo, người dân tộc thiểu số... thì người lao động di cư trong đó đặc biệt là lao động nữ di cư cần phải được đưa vào các chính sách quan trọng của đất nước như chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, chiến lược chăm sóc sức khỏe, chính sách hỗ trợ giảm nghèo, chính sách tạo việc làm ổn định, chính sách hỗ trợ sử dụng các dịch vụ xã hội... Cần phải xem xét để đưa đối tượng này vào đối tượng bảo trợ xã hội. Tuy nhiên, việc đưa vào các chính sách phải dưới góc độ bảo đảm, bảo vệ các quyền mà nhóm xã hội này rất dễ bị xâm phạm, bảo đảm những điều kiện để nhóm xã hội này giảm bớt những tổn thương, những rủi ro thường phải đối mặt. Đặc biệt, phải quan tâm đến việc xây dựng các chính sách để có thể giảm tải lượng người di cư đến thành thị trong bối cảnh quá tải hiện nay và bảo đảm được quyền của lao động nữ nông thôn. Đó chính là chính sách hỗ trợ việc làm tại nơi đi, chính sách sử dụng lao động tại chỗ đối với các công trình xây dựng tại địa phương, tạo thu nhập cho lao động nữ nông thôn. Khi có việc làm tại nông thôn thì họ sẽ ít phải di cư nhằm mục đích mưu sinh. Các chính sách phải được thực hiện đồng bộ mới có thể bảo đảm quyền của nhóm xã hội này một cách thiết thực nhất.
Phải xây dựng khung pháp luật chặt chẽ, đầy đủ và có tính đặc thù riêng cho đối tượng lao động di cư. Đặc biệt, phải xem đối tượng lao động di cư làm việc không có hợp đồng cũng phải là người lao động được bảo đảm bằng các quy định đặc thù cho nhóm lao động này. Việc xây dựng chế định riêng về nhóm người lao động làm việc tự do tương tự như việc bảo đảm các nhóm lao động đặc thù trong Bộ luật Lao động hiện nay như lao động chưa thành niên hay nhóm lao động là người cao tuổi. Các quy định pháp luật cần được hoàn thiện theo hướng tháo gỡ các rào cản gây khó khăn cho người di cư trong nước trong việc tiếp cận các dịch vụ trong sinh hoạt và các dịch vụ xã hội khác cụ thể là các quy định pháp luật về chế độ quản lý bằng hộ khẩu. Các quy định này phải được sửa đổi theo hướng loại bỏ việc quy định hộ khẩu thường trú là điều kiện trong tiếp cận các dịch vụ xã hội hay thủ tục pháp lý, hành chính mà chỉ sử dụng làm công cụ quản lý sự biến động dân số và hỗ trợ cho tính toán và quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
1.3. Hoàn thiện bộ máy nhà nước để bảo đảm quyền của lao động nữ di trú từ nông thôn đến thành thị
Trước hết, phải thiết lập được cơ quan nhân quyền quốc gia để bảo đảm quyền con người nói chung, trong đó có lao động nữ di cư từ nông thôn đến thành thị. Đồng thời, phải xây dựng cơ quan chuyên trách trong bộ máy nhà nước để quản lý đồng thời bảo đảm quyền cho lao động di cư trong nước nói chung. Cơ quan chuyên trách này có bộ phận chuyên trách về lao động nữ di cư. Tuy nhiên, theo nguyên tắc bộ máy nhà nước càng mở rộng thì xã hội càng thu hẹp cũng như theo chiến lược cải cách hành chính hiện nay, nên giao trách nhiệm này cho Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, không thành lập thêm cục mới mà giao thêm trách nhiệm này cho Cục Quản lý lao động ngoài nước. Đổi tên Cục Quản lý lao động ngoài nước thành Cục Quản lý lao động di cư. Nhiệm vụ của Cục bao gồm quản lý và bảo đảm quyền của cả lao động di cư trong nước, lao động di cư Việt Nam ở nước ngoài và lao động nước ngoài ở Việt Nam. Cục Quản lý lao động di cư có trách nhiệm tham mưu cho Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội về các chính sách liên quan đến lao động di cư và đưa đối tượng lao động di cư trong nước, đặc biệt là lao động nữ di cư vào thụ hưởng các chế độ chính sách xã hội mà Bộ trực tiếp quản lý. Từ đó, Bộ Lao động - Thương binh và xã hội có trách nhiệm phối hợp với các bộ ngành liên quan như Bộ Y tế, Bộ Giáo dục... đưa ra các giải pháp hỗ trợ phù hợp để tạo thuận lợi cho đối tượng này được thuận lợi trong việc thụ hưởng các quyền đặc trưng.
Trong bộ máy quản lý nhà nước, chính quyền địa phương có một vai trò quan trọng vì họ là cấp chính quyền có tác động trực tiếp nhất đối với lao động di cư. Ở góc độ này, trước hết cần có sự quán triệt về chủ trương đối với chính quyền các cấp về quan điểm lao động di cư là một luồng lao động bổ sung cho địa phương; di cư là một vấn đề phát triển. Đây là một điều kiện cơ bản để các cấp chính quyền địa phương có thể đưa ra những quyết định chính sách theo hướng “vì người lao động di cư’.
1.4. Tăng cường hoạt động bảo đảm quyền của lao động nữ di trú từ nông thôn đến thành thị từ các tổ chức đoàn thể trong xã hội
Trong nhiệm vụ và các chương trình hoạt động của các đoàn thể xã hội phải hướng tới nhóm xã hội này. Đặc biệt tại nơi đến, cần tránh quan điểm chú trọng vào dân cư đã cư trú thường xuyên trên địa bàn mà bỏ qua đối tượng là lao động nữ di cư. Hoạt động của các đoàn thể nếu hướng đến lao động nữ di cư sẽ tạo được những điều kiện thuận lợi giúp nhóm xã hội này không còn bị rơi vào trạng thái bị tách rời khỏi xã hội nơi đến, có thể tiếp cận và hòa nhập với cộng đồng nơi đến. Đồng thời, các đoàn thể xã hội sẽ có các phương án hỗ trợ hoặc kiến nghị các cấp chính quyền có các chính sách bảo đảm các quyền của nhóm xã hội này. Các đoàn thể xã hội có liên quan trực tiếp đến đối tượng lao động nữ di cư chính là Liên đoàn Lao động, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Đoàn Thanh niên.
Ngoài ra, Việt Nam cần phải tích cực học tập kinh nghiệm của các nước trên thế giới về vấn đề bảo đảm, thúc đẩy và bảo vệ người di cư trong nước nói chung và lao động nữ di cư nói riêng. Ví dụ: Vận dụng chính sách của Nhật Bản đối với người di cư cụ thể là sự tiếp cận phổ biến và miễn phí đến các dịch vụ chăm sóc lao cho dân di cư[2].
2. Những giải pháp nhằm bảo đảm quyền của lao động nữ di trú từ nông thôn đến thành thị ở Việt Nam
2.1. Bảo đảm quyền làm việc và quyền liên quan đến quyền làm việc
Trước hết, cần phải thống kê số lượng, việc làm và chất lượng cuộc sống của lao động nữ di cư theo hướng phân chia giữa lao động là công nhân và lao động di cư làm việc tự do để có số liệu đánh giá cụ thể, từ đó mới có thể đưa ra được các giải pháp về bảo đảm quyền làm việc, quyền liên quan đến quyền làm việc cho nhóm xã hội này. Nhiệm vụ này nằm trong cuộc tổng điều tra di cư của Tổng cục Thống kê[3]. Hoàn thiện các quy định của pháp luật nhằm bảo đảm quyền trực tiếp cho lao động nữ di cư, trong đó chú trọng lao động nữ di cư làm việc tự do không có hợp đồng tại một chế định riêng biệt “Quy định dành cho lao động làm việc tự do không có hợp đồng lao động”. Trong chế định này sẽ quy định các quyền về việc làm mà nhóm lao động này được bảo đảm như: Làm việc tại môi trường làm việc an toàn, được tham gia bảo hiểm y tế, tham gia bảo hiểm xã hội... Đồng thời, quy định trách nhiệm cho đoàn thể và chính quyền về trách nhiệm cung cấp thông tin về việc làm, hướng dẫn di cư an toàn cũng như bảo đảm các điều kiện, tạo thuận lợi và có chính sách hỗ trợ cho đời sống của nhóm lao động này.
Các cơ quan nhà nước phải xây dựng được chính sách việc làm hàng năm, trong đó chú trọng đến tạo điều kiện có việc làm cho lao động nữ tại nông thôn và các chương trình đào tạo nghề. Theo đó, phải triển khai được đa dạng hóa việc làm tại nông thôn, phát triển các làng nghề truyền thống, xây dựng các khu công nghiệp. Tuy nhiên, các dự án này cũng phải quan tâm đến sự phát triển bền vững có tính toán đến việc có thu hẹp đất nông nghiệp hay không...
Các cơ quan nhà nước và đoàn thể xã hội tại nơi đến phải có cơ chế giám sát và kịp thời tiếp nhận thông tin xử lý vi phạm các hành vi vi phạm pháp luật của người sử dụng lao động đối với công nhân trong quá trình tuyển dụng, việc không ký kết hợp đồng lao động, điều kiện làm việc, thời giờ làm việc, trả chậm lương, không thực hiện cam kết đào tạo nâng cao tay nghề... Đồng thời, có cơ chế kiểm soát tốt việc giao kết và thực hiện hợp đồng lao động đối với người giúp việc gia đình. Bên cạnh đó, cần nâng cao vai trò của tổ chức công đoàn tại các doanh nghiệp trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động. Ngoài ra, cần thực hiện việc giáo dục nâng cao nhận thức và các thông tin việc làm cần thiết cho đối tượng lao động nữ di cư giúp cho nhóm xã hội này được nâng cao hiểu biết về việc làm và các chế độ được hưởng trong làm việc tránh bị dụ dỗ, lừa đảo, bị lợi dụng trong quá trình tìm kiếm việc làm hoặc trong cả quá trình làm việc. Trách nhiệm này thuộc về cả cơ quan lao động thương binh và xã hội, Liên đoàn Lao động, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân ở cả nơi đi và nơi đến.
2.2. Bảo đảm quyền tự do cư trú và quyền có nhà ở
Nhà nước cần phải xem xét lại việc thực hiện quản lý dân cư bằng hộ khẩu gia đình và hộ khẩu gia đình là điều kiện để được hưởng các dịch vụ liên quan đến đời sống sinh hoạt với giá thấp hơn. Nếu giữ lại việc quản lý dân cư bằng hộ khẩu gia đình thì chỉ sử dụng làm căn cứ xác định thành viên của hộ gia đình chứ không phải là công cụ để hạn chế việc di cư vào các vùng thành thị. Hạn chế di cư bằng biện pháp hành chính là không khả thi và còn vi phạm đến quyền tự do cư trú trong nước của công dân. Để dung hòa được mâu thuẫn một bên là quyền tự do cư trú và một bên là sức ép từ việc di cư đối với thành thị nên đưa ra các giải pháp phù hợp như tạo công ăn việc làm tại nông thôn chứ không được sử dụng chế độ hộ khẩu để hạn chế di cư như hiện nay. Cần tăng cường kiểm soát các văn bản dưới luật, đặc biệt là các văn bản của các địa phương nơi đến của lao động nữ di cư trong việc hạn chế di cư.
Bên cạnh đó, Nhà nước, các tổ chức xã hội và các doanh nghiệp phải quan tâm và có chính sách hỗ trợ cho lao động di cư nói chung và lao động nữ di cư nói riêng về nhà ở. Huy động nguồn lực tài chính để xây dựng nhà ở xã hội với giá bán và giá cho thuê thấp phù hợp với thu nhập của đối tượng này. Ngoài ra, phải đưa đối tượng lao động di cư vào đối tượng nhận được sự bảo trợ của xã hội trong việc được hỗ trợ về giá điện và giá nước sinh hoạt. Đồng thời, phải có cơ chế kiểm soát chặt chẽ việc tăng giá nhà cho thuê, tăng giá điện và giá nước không phù hợp tại các khu nhà trọ nơi mà lao động nữ di cư sinh sống. Trách nhiệm này chủ yếu thuộc về chính quyền nơi đến.
2.3. Bảo đảm quyền được bảo vệ về thể chất, tình dục, cảm xúc và tinh thần
Chính quyền nơi đi phải có trách nhiệm tuyên truyền và giáo dục nhận thức cho lao động nữ có thể di cư an toàn. Trong chương trình tuyên truyền phải đưa ra được những rủi ro về việc xâm phạm về thể chất, tình dục, những tệ nạn xã hội mà lao động nữ di cư có thể bị đối mặt, bị dụ dỗ, lôi cuốn, từ đó, lao động nữ di cư được trang bị kiến thức và kỹ năng cần thiết tự bảo vệ cho bản thân mình. Đồng thời, Hội Phụ nữ tại địa phương nơi đi phải có được thông tin về lao động nữ di cư của địa phương mình, từ đó có các chương trình hành động vì gia đình lao động nữ di cư. Trong chương trình hành động này có sự quan tâm tới con cái của lao động nữ di cư không di cư cùng mẹ, cũng như làm công tác tư tưởng cho cả chồng của lao động nữ di cư về việc giữ gìn hạnh phúc gia đình trong thời gian phụ nữ di cư vì mục đích mưu sinh.
Chính quyền nơi đến phải xem đối tượng lao động nữ di cư sinh sống trên địa bàn là đối tượng dễ gặp phải rủi ro và rất cần sự quan tâm và giúp đỡ của các cơ quan nhà nước cũng như đoàn thể xã hội tại nơi đến. Chính quyền địa phương phải bảo đảm an ninh trật tự xung quanh khu làm việc của lao động nữ di cư và những khu vực nơi tập trung lao động nữ di cư sinh sống. Tăng cường tuyên truyền và cung cấp những thông tin về tình hình an ninh trật tự, tình hình tội phạm trên địa bàn có nguy cơ xâm hại đến nhóm xã hội này một cách kịp thời và thường xuyên để lao động nữ di cư có thể cảnh giác và đề phòng những rủi ro có thể xảy ra.
Các cơ quan nhà nước và đoàn thể xã hội tăng cường kiểm soát điều kiện làm việc an toàn của lao động nữ di cư về tình trạng xâm phạm tình dục, xúc phạm tinh thần nơi làm việc kể cả tại các khu công nghiệp, khu chế xuất cũng như tại các gia đình thuê giúp việc và các địa điểm làm việc của lao động nữ làm việc tự do.
Tăng cường giáo dục quyền con người cụ thể là việc bảo đảm, thúc đẩy và bảo vệ quyền của lao động nữ di trú từ nông thôn đến thành thị một cách rộng rãi cho xã hội nơi đến. Thông qua giáo dục, xã hội nơi đến nhận thức được các quyền tự nhiên của con người nói chung và nhóm xã hội này nói riêng, từ đó hình thành trong nhận thức và hành động việc tôn trọng quyền của nhóm xã hội này.
2.4. Bảo đảm quyền được chăm sóc sức khỏe
Tăng cường giáo dục nhận thức cho lao động nữ di trú từ nông thôn đến thành thị về tầm quan trọng của việc chăm sóc sức khỏe đặc biệt là chăm sóc sức khỏe sinh sản. Bên cạnh đó, phải tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về chính sách bảo hiểm y tế một cách rộng rãi cho cả đối tượng lao động nữ là công nhân và cả lao động nữ làm việc tự do. Trách nhiệm giáo dục nhận thức và hiểu biết pháp luật thuộc về tổ chức công đoàn tại các khu công nghiệp, khu chế xuất đối với công nhân và thuộc về Hội Liên hiệp Phụ nữ tại địa bàn dân cư nơi có lao động nữ làm việc tự do sinh sống.
Nhà nước và các tổ chức khác trong xã hội phải đưa đối tượng lao động nữ di cư vào các chiến lược, chương trình và chính sách chăm sóc sức khỏe quốc gia cũng như các chính sách chăm sóc sức khỏe đặc thù dành riêng cho đối tượng lao động nữ di cư. Đồng thời thực hiện việc thăm khám và phát thuốc miễn phí. Trong các chiến lược, chính sách chăm sóc sức khỏe phải đặc biệt quan tâm tới lực lượng lao động nữ di cư làm việc tự do. Để thực hiện được vấn đề này, cần thiết việc tranh thủ nguồn lực tài chính, nguồn lực xã hội cũng như cần phải phối hợp với các tổ chức phi Chính phủ.
Cần phải hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm y tế có hướng đến đối tượng là lao động di cư trong nước. Có thể thay đổi việc hưởng chế độ bảo hiểm y tế theo cơ sở khám chữa bệnh đăng ký ban đầu hoặc đưa ra những quy định đặc thù dành riêng cho đối tượng lao động nữ di cư làm việc tự do. Theo đó, nếu khi di cư, người lao động có giấy tờ xác nhận của chính quyền nơi đi và nơi đến là lao động di cư đối với lao động làm việc tự do thì sẽ được hưởng chế độ bảo hiểm tại nơi đến tương tự là nơi đăng ký thăm khám lần đầu hoặc được hỗ trợ với mức cao hơn so với quy định về vượt tuyến.
2.5. Bảo đảm quyền được hưởng an sinh xã hội
Cần sớm cải cách quản lý hộ khẩu để gỡ bỏ những rào cản đối với người di cư nông thôn đến thành thị trong việc tiếp cận với các dịch vụ an sinh xã hội. Bên cạnh đó, cần tăng cường giáo dục nhận thức và trang bị kiến thức cần thiết cho lao động nữ di cư để có những hiểu biết nhất định và thực hiện việc tham gia hệ thống an sinh xã hội đặc biệt là chính sách bảo hiểm xã hội. Trong đó, đặc biệt nhấn mạnh tầm quan trọng của việc ký kết hợp đồng lao động đối với việc thụ hưởng chế độ của bảo hiểm xã hội, từ đó yêu cầu người sử dụng lao động thực hiện nghĩa vụ của mình. Đối với lao động nữ làm việc tự do càng phải tích cực phổ biến pháp luật về chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện và các chế độ được thụ hưởng từ việc tham gia bảo hiểm. Các cơ quan nhà nước và các đoàn thể xã hội nơi đến phải tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm kịp thời, nghiêm khắc việc không thực hiện nghĩa vụ ký kết hợp đồng hoặc cố tình ký kết hợp đồng làm việc ngắn hạn của các doanh nghiệp nhằm trốn tránh trách nhiệm đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động.
Ngoài ra, cần sớm hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm xã hội, trong đó có quy định thêm các chế độ được hưởng của việc tham gia loại hình bảo hiểm xã hội tự nguyện không dừng lại ở hai chế độ hưu trí và tử tuất như hiện nay. Điều này cũng bảo đảm quyền ngang nhau của lao động làm việc theo hợp đồng và lao động làm việc tự do. Đồng thời, giảm mức đóng bảo hiểm xã hội cho đối tượng lao động nữ di cư, không lấy mức lương tối thiểu làm cơ sở xác định mức đóng và có quy định một cơ sở xác định mức đóng thấp hơn và hợp lý hơn.
2.6. Bảo đảm quyền liên quan đến thành viên trong gia đình họ mà cụ thể là quyền của con cái họ
Nhà nước và xã hội phải có sự chú trọng đến việc quan tâm và hỗ trợ trẻ em là con cái của người lao động di cư trong các chính sách hỗ trợ và cả quy định pháp luật. Con cái của người lao động di cư trong các chính sách hỗ trợ và cả quy định pháp luật. Phải xem đây là đối tượng dễ bị tổn thương cần phải đặc biệt quan tâm.
Nhà nước và các đoàn thể xã hội phải thực hiện việc giám sát, kiểm soát chặt chẽ các văn bản dưới luật, quy chế xét tuyển học sinh ở các địa phương có lượng lao động nhập cư lớn đưa ra các điều kiện để được học tập tại các cơ sở giáo dục đào tạo công lập trong đó có điều kiện về hộ khẩu thường trú. Cần phải xóa bỏ việc sử dụng hộ khẩu thường trú làm điều kiện để tiếp cận học tập trường công lập tại thành thị thay vào đó là các giải pháp phù hợp hơn như mở thêm các cơ sở khác của trường công lập, hỗ trợ học phí cho các đối tượng là con của lao động nữ di cư hay tổ chức thi tuyển công khai mà không liên quan đến hộ khẩu thường trú... Bên cạnh đó, Nhà nước và các đoàn thể xã hội tăng cường việc kiểm tra, giám sát và khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện cam kết xây dựng các nhà trẻ cho con cái của lao động nữ.
[1]. Tổ chức UN Việt Nam, (2010), Di cư trong nước cơ hội và thách thức đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam.
[2]. Viện Khoa học Lao động và Xã hội (2013), Thực trạng di cư trong nước và những vấn đề cần ưu tiên trong chăm sóc sức khỏe, Kỷ yếu Hội thảo Chăm sóc sức khỏe người di cư ở Việt Nam thực trạng và giải pháp, Tổ chức Di cư Thế giới IOM.
[3]. Tổ chức UN Việt Nam, (2010), Di cư trong nước cơ hội và thách thức đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam.
Trong bài viết này, tác giả nêu định hướng bảo đảm quyền của lao động nữ di trú từ nông thôn đến thành thị ở Việt Nam, đồng thời, tập trung phân tích các giải pháp cụ thể nhằm tăng cường bảo đảm các quyền đặc trưng của nhóm lao động này.
1. Định hướng bảo đảm quyền của lao động nữ di trú từ nông thôn đến thành thị ở Việt Nam
1.1. Nâng cao nhận thức về bảo đảm quyền của lao động nữ di trú từ nông thôn đến thành thị
Cần phải coi lao động nữ di trú từ nông thôn đến thành thị là nhóm xã hội dễ bị tổn thương và phải được quan tâm, hỗ trợ, đồng thời, phải xem nhóm xã hội này là một vấn đề phát triển. Mặc dù, di cư có thể kéo theo các hệ quả xã hội nhất định (biến động về cư trú, trật tự xã hội, tệ nạn xã hội, quá tải của hệ thống cở sở hạ tầng đô thị), nhưng di cư rõ ràng là một vấn đề phát triển trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam. Từ góc độ nơi xuất cư, di cư là một lựa chọn của nhiều người trong lực lượng lao động muốn thay đổi nơi cư trú để có việc làm, tạo ra thu nhập cho bản thân, trợ giúp thu nhập gia đình. Ở góc độ nơi đến, lao động di cư là nguồn lao động bổ sung cần thiết, nhất là đối với các công việc lao động phổ thông trong các lĩnh vực sản xuất, dịch vụ đòi hỏi sử dụng nhiều lao động. Vì vậy, luồng di cư cần được xem là một nguồn lực kinh tế có đóng góp nhất định đối với tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo[1]. Chỉ đến khi luồng lao động di cư được đặt đúng với ý nghĩa của nó thì các quan điểm tiêu cực về di cư, kiểm soát và hạn chế di cư, thậm chí là có tính phân biệt đối xử với lao động di cư mới được xóa bỏ. Quan điểm này cần được thể hiện trong những văn kiện có ý nghĩa chiến lược ở cấp cao nhất của quốc gia để có thể trở thành một chủ trương chính thức đối với quản lý vấn đề phát triển là di cư trong nước.
1.2. Tăng cường hoàn thiện chính sách, pháp luật về bảo đảm quyền của lao động nữ di trú từ nông thôn đến thành thị
Cùng với các nhóm xã hội dễ bị tổn thương khác trong xã hội như trẻ em, người nghèo, người dân tộc thiểu số... thì người lao động di cư trong đó đặc biệt là lao động nữ di cư cần phải được đưa vào các chính sách quan trọng của đất nước như chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, chiến lược chăm sóc sức khỏe, chính sách hỗ trợ giảm nghèo, chính sách tạo việc làm ổn định, chính sách hỗ trợ sử dụng các dịch vụ xã hội... Cần phải xem xét để đưa đối tượng này vào đối tượng bảo trợ xã hội. Tuy nhiên, việc đưa vào các chính sách phải dưới góc độ bảo đảm, bảo vệ các quyền mà nhóm xã hội này rất dễ bị xâm phạm, bảo đảm những điều kiện để nhóm xã hội này giảm bớt những tổn thương, những rủi ro thường phải đối mặt. Đặc biệt, phải quan tâm đến việc xây dựng các chính sách để có thể giảm tải lượng người di cư đến thành thị trong bối cảnh quá tải hiện nay và bảo đảm được quyền của lao động nữ nông thôn. Đó chính là chính sách hỗ trợ việc làm tại nơi đi, chính sách sử dụng lao động tại chỗ đối với các công trình xây dựng tại địa phương, tạo thu nhập cho lao động nữ nông thôn. Khi có việc làm tại nông thôn thì họ sẽ ít phải di cư nhằm mục đích mưu sinh. Các chính sách phải được thực hiện đồng bộ mới có thể bảo đảm quyền của nhóm xã hội này một cách thiết thực nhất.
Phải xây dựng khung pháp luật chặt chẽ, đầy đủ và có tính đặc thù riêng cho đối tượng lao động di cư. Đặc biệt, phải xem đối tượng lao động di cư làm việc không có hợp đồng cũng phải là người lao động được bảo đảm bằng các quy định đặc thù cho nhóm lao động này. Việc xây dựng chế định riêng về nhóm người lao động làm việc tự do tương tự như việc bảo đảm các nhóm lao động đặc thù trong Bộ luật Lao động hiện nay như lao động chưa thành niên hay nhóm lao động là người cao tuổi. Các quy định pháp luật cần được hoàn thiện theo hướng tháo gỡ các rào cản gây khó khăn cho người di cư trong nước trong việc tiếp cận các dịch vụ trong sinh hoạt và các dịch vụ xã hội khác cụ thể là các quy định pháp luật về chế độ quản lý bằng hộ khẩu. Các quy định này phải được sửa đổi theo hướng loại bỏ việc quy định hộ khẩu thường trú là điều kiện trong tiếp cận các dịch vụ xã hội hay thủ tục pháp lý, hành chính mà chỉ sử dụng làm công cụ quản lý sự biến động dân số và hỗ trợ cho tính toán và quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
1.3. Hoàn thiện bộ máy nhà nước để bảo đảm quyền của lao động nữ di trú từ nông thôn đến thành thị
Trước hết, phải thiết lập được cơ quan nhân quyền quốc gia để bảo đảm quyền con người nói chung, trong đó có lao động nữ di cư từ nông thôn đến thành thị. Đồng thời, phải xây dựng cơ quan chuyên trách trong bộ máy nhà nước để quản lý đồng thời bảo đảm quyền cho lao động di cư trong nước nói chung. Cơ quan chuyên trách này có bộ phận chuyên trách về lao động nữ di cư. Tuy nhiên, theo nguyên tắc bộ máy nhà nước càng mở rộng thì xã hội càng thu hẹp cũng như theo chiến lược cải cách hành chính hiện nay, nên giao trách nhiệm này cho Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, không thành lập thêm cục mới mà giao thêm trách nhiệm này cho Cục Quản lý lao động ngoài nước. Đổi tên Cục Quản lý lao động ngoài nước thành Cục Quản lý lao động di cư. Nhiệm vụ của Cục bao gồm quản lý và bảo đảm quyền của cả lao động di cư trong nước, lao động di cư Việt Nam ở nước ngoài và lao động nước ngoài ở Việt Nam. Cục Quản lý lao động di cư có trách nhiệm tham mưu cho Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội về các chính sách liên quan đến lao động di cư và đưa đối tượng lao động di cư trong nước, đặc biệt là lao động nữ di cư vào thụ hưởng các chế độ chính sách xã hội mà Bộ trực tiếp quản lý. Từ đó, Bộ Lao động - Thương binh và xã hội có trách nhiệm phối hợp với các bộ ngành liên quan như Bộ Y tế, Bộ Giáo dục... đưa ra các giải pháp hỗ trợ phù hợp để tạo thuận lợi cho đối tượng này được thuận lợi trong việc thụ hưởng các quyền đặc trưng.
Trong bộ máy quản lý nhà nước, chính quyền địa phương có một vai trò quan trọng vì họ là cấp chính quyền có tác động trực tiếp nhất đối với lao động di cư. Ở góc độ này, trước hết cần có sự quán triệt về chủ trương đối với chính quyền các cấp về quan điểm lao động di cư là một luồng lao động bổ sung cho địa phương; di cư là một vấn đề phát triển. Đây là một điều kiện cơ bản để các cấp chính quyền địa phương có thể đưa ra những quyết định chính sách theo hướng “vì người lao động di cư’.
1.4. Tăng cường hoạt động bảo đảm quyền của lao động nữ di trú từ nông thôn đến thành thị từ các tổ chức đoàn thể trong xã hội
Trong nhiệm vụ và các chương trình hoạt động của các đoàn thể xã hội phải hướng tới nhóm xã hội này. Đặc biệt tại nơi đến, cần tránh quan điểm chú trọng vào dân cư đã cư trú thường xuyên trên địa bàn mà bỏ qua đối tượng là lao động nữ di cư. Hoạt động của các đoàn thể nếu hướng đến lao động nữ di cư sẽ tạo được những điều kiện thuận lợi giúp nhóm xã hội này không còn bị rơi vào trạng thái bị tách rời khỏi xã hội nơi đến, có thể tiếp cận và hòa nhập với cộng đồng nơi đến. Đồng thời, các đoàn thể xã hội sẽ có các phương án hỗ trợ hoặc kiến nghị các cấp chính quyền có các chính sách bảo đảm các quyền của nhóm xã hội này. Các đoàn thể xã hội có liên quan trực tiếp đến đối tượng lao động nữ di cư chính là Liên đoàn Lao động, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Đoàn Thanh niên.
Ngoài ra, Việt Nam cần phải tích cực học tập kinh nghiệm của các nước trên thế giới về vấn đề bảo đảm, thúc đẩy và bảo vệ người di cư trong nước nói chung và lao động nữ di cư nói riêng. Ví dụ: Vận dụng chính sách của Nhật Bản đối với người di cư cụ thể là sự tiếp cận phổ biến và miễn phí đến các dịch vụ chăm sóc lao cho dân di cư[2].
2. Những giải pháp nhằm bảo đảm quyền của lao động nữ di trú từ nông thôn đến thành thị ở Việt Nam
2.1. Bảo đảm quyền làm việc và quyền liên quan đến quyền làm việc
Trước hết, cần phải thống kê số lượng, việc làm và chất lượng cuộc sống của lao động nữ di cư theo hướng phân chia giữa lao động là công nhân và lao động di cư làm việc tự do để có số liệu đánh giá cụ thể, từ đó mới có thể đưa ra được các giải pháp về bảo đảm quyền làm việc, quyền liên quan đến quyền làm việc cho nhóm xã hội này. Nhiệm vụ này nằm trong cuộc tổng điều tra di cư của Tổng cục Thống kê[3]. Hoàn thiện các quy định của pháp luật nhằm bảo đảm quyền trực tiếp cho lao động nữ di cư, trong đó chú trọng lao động nữ di cư làm việc tự do không có hợp đồng tại một chế định riêng biệt “Quy định dành cho lao động làm việc tự do không có hợp đồng lao động”. Trong chế định này sẽ quy định các quyền về việc làm mà nhóm lao động này được bảo đảm như: Làm việc tại môi trường làm việc an toàn, được tham gia bảo hiểm y tế, tham gia bảo hiểm xã hội... Đồng thời, quy định trách nhiệm cho đoàn thể và chính quyền về trách nhiệm cung cấp thông tin về việc làm, hướng dẫn di cư an toàn cũng như bảo đảm các điều kiện, tạo thuận lợi và có chính sách hỗ trợ cho đời sống của nhóm lao động này.
Các cơ quan nhà nước phải xây dựng được chính sách việc làm hàng năm, trong đó chú trọng đến tạo điều kiện có việc làm cho lao động nữ tại nông thôn và các chương trình đào tạo nghề. Theo đó, phải triển khai được đa dạng hóa việc làm tại nông thôn, phát triển các làng nghề truyền thống, xây dựng các khu công nghiệp. Tuy nhiên, các dự án này cũng phải quan tâm đến sự phát triển bền vững có tính toán đến việc có thu hẹp đất nông nghiệp hay không...
Các cơ quan nhà nước và đoàn thể xã hội tại nơi đến phải có cơ chế giám sát và kịp thời tiếp nhận thông tin xử lý vi phạm các hành vi vi phạm pháp luật của người sử dụng lao động đối với công nhân trong quá trình tuyển dụng, việc không ký kết hợp đồng lao động, điều kiện làm việc, thời giờ làm việc, trả chậm lương, không thực hiện cam kết đào tạo nâng cao tay nghề... Đồng thời, có cơ chế kiểm soát tốt việc giao kết và thực hiện hợp đồng lao động đối với người giúp việc gia đình. Bên cạnh đó, cần nâng cao vai trò của tổ chức công đoàn tại các doanh nghiệp trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động. Ngoài ra, cần thực hiện việc giáo dục nâng cao nhận thức và các thông tin việc làm cần thiết cho đối tượng lao động nữ di cư giúp cho nhóm xã hội này được nâng cao hiểu biết về việc làm và các chế độ được hưởng trong làm việc tránh bị dụ dỗ, lừa đảo, bị lợi dụng trong quá trình tìm kiếm việc làm hoặc trong cả quá trình làm việc. Trách nhiệm này thuộc về cả cơ quan lao động thương binh và xã hội, Liên đoàn Lao động, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân ở cả nơi đi và nơi đến.
2.2. Bảo đảm quyền tự do cư trú và quyền có nhà ở
Nhà nước cần phải xem xét lại việc thực hiện quản lý dân cư bằng hộ khẩu gia đình và hộ khẩu gia đình là điều kiện để được hưởng các dịch vụ liên quan đến đời sống sinh hoạt với giá thấp hơn. Nếu giữ lại việc quản lý dân cư bằng hộ khẩu gia đình thì chỉ sử dụng làm căn cứ xác định thành viên của hộ gia đình chứ không phải là công cụ để hạn chế việc di cư vào các vùng thành thị. Hạn chế di cư bằng biện pháp hành chính là không khả thi và còn vi phạm đến quyền tự do cư trú trong nước của công dân. Để dung hòa được mâu thuẫn một bên là quyền tự do cư trú và một bên là sức ép từ việc di cư đối với thành thị nên đưa ra các giải pháp phù hợp như tạo công ăn việc làm tại nông thôn chứ không được sử dụng chế độ hộ khẩu để hạn chế di cư như hiện nay. Cần tăng cường kiểm soát các văn bản dưới luật, đặc biệt là các văn bản của các địa phương nơi đến của lao động nữ di cư trong việc hạn chế di cư.
Bên cạnh đó, Nhà nước, các tổ chức xã hội và các doanh nghiệp phải quan tâm và có chính sách hỗ trợ cho lao động di cư nói chung và lao động nữ di cư nói riêng về nhà ở. Huy động nguồn lực tài chính để xây dựng nhà ở xã hội với giá bán và giá cho thuê thấp phù hợp với thu nhập của đối tượng này. Ngoài ra, phải đưa đối tượng lao động di cư vào đối tượng nhận được sự bảo trợ của xã hội trong việc được hỗ trợ về giá điện và giá nước sinh hoạt. Đồng thời, phải có cơ chế kiểm soát chặt chẽ việc tăng giá nhà cho thuê, tăng giá điện và giá nước không phù hợp tại các khu nhà trọ nơi mà lao động nữ di cư sinh sống. Trách nhiệm này chủ yếu thuộc về chính quyền nơi đến.
2.3. Bảo đảm quyền được bảo vệ về thể chất, tình dục, cảm xúc và tinh thần
Chính quyền nơi đi phải có trách nhiệm tuyên truyền và giáo dục nhận thức cho lao động nữ có thể di cư an toàn. Trong chương trình tuyên truyền phải đưa ra được những rủi ro về việc xâm phạm về thể chất, tình dục, những tệ nạn xã hội mà lao động nữ di cư có thể bị đối mặt, bị dụ dỗ, lôi cuốn, từ đó, lao động nữ di cư được trang bị kiến thức và kỹ năng cần thiết tự bảo vệ cho bản thân mình. Đồng thời, Hội Phụ nữ tại địa phương nơi đi phải có được thông tin về lao động nữ di cư của địa phương mình, từ đó có các chương trình hành động vì gia đình lao động nữ di cư. Trong chương trình hành động này có sự quan tâm tới con cái của lao động nữ di cư không di cư cùng mẹ, cũng như làm công tác tư tưởng cho cả chồng của lao động nữ di cư về việc giữ gìn hạnh phúc gia đình trong thời gian phụ nữ di cư vì mục đích mưu sinh.
Chính quyền nơi đến phải xem đối tượng lao động nữ di cư sinh sống trên địa bàn là đối tượng dễ gặp phải rủi ro và rất cần sự quan tâm và giúp đỡ của các cơ quan nhà nước cũng như đoàn thể xã hội tại nơi đến. Chính quyền địa phương phải bảo đảm an ninh trật tự xung quanh khu làm việc của lao động nữ di cư và những khu vực nơi tập trung lao động nữ di cư sinh sống. Tăng cường tuyên truyền và cung cấp những thông tin về tình hình an ninh trật tự, tình hình tội phạm trên địa bàn có nguy cơ xâm hại đến nhóm xã hội này một cách kịp thời và thường xuyên để lao động nữ di cư có thể cảnh giác và đề phòng những rủi ro có thể xảy ra.
Các cơ quan nhà nước và đoàn thể xã hội tăng cường kiểm soát điều kiện làm việc an toàn của lao động nữ di cư về tình trạng xâm phạm tình dục, xúc phạm tinh thần nơi làm việc kể cả tại các khu công nghiệp, khu chế xuất cũng như tại các gia đình thuê giúp việc và các địa điểm làm việc của lao động nữ làm việc tự do.
Tăng cường giáo dục quyền con người cụ thể là việc bảo đảm, thúc đẩy và bảo vệ quyền của lao động nữ di trú từ nông thôn đến thành thị một cách rộng rãi cho xã hội nơi đến. Thông qua giáo dục, xã hội nơi đến nhận thức được các quyền tự nhiên của con người nói chung và nhóm xã hội này nói riêng, từ đó hình thành trong nhận thức và hành động việc tôn trọng quyền của nhóm xã hội này.
2.4. Bảo đảm quyền được chăm sóc sức khỏe
Tăng cường giáo dục nhận thức cho lao động nữ di trú từ nông thôn đến thành thị về tầm quan trọng của việc chăm sóc sức khỏe đặc biệt là chăm sóc sức khỏe sinh sản. Bên cạnh đó, phải tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về chính sách bảo hiểm y tế một cách rộng rãi cho cả đối tượng lao động nữ là công nhân và cả lao động nữ làm việc tự do. Trách nhiệm giáo dục nhận thức và hiểu biết pháp luật thuộc về tổ chức công đoàn tại các khu công nghiệp, khu chế xuất đối với công nhân và thuộc về Hội Liên hiệp Phụ nữ tại địa bàn dân cư nơi có lao động nữ làm việc tự do sinh sống.
Nhà nước và các tổ chức khác trong xã hội phải đưa đối tượng lao động nữ di cư vào các chiến lược, chương trình và chính sách chăm sóc sức khỏe quốc gia cũng như các chính sách chăm sóc sức khỏe đặc thù dành riêng cho đối tượng lao động nữ di cư. Đồng thời thực hiện việc thăm khám và phát thuốc miễn phí. Trong các chiến lược, chính sách chăm sóc sức khỏe phải đặc biệt quan tâm tới lực lượng lao động nữ di cư làm việc tự do. Để thực hiện được vấn đề này, cần thiết việc tranh thủ nguồn lực tài chính, nguồn lực xã hội cũng như cần phải phối hợp với các tổ chức phi Chính phủ.
Cần phải hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm y tế có hướng đến đối tượng là lao động di cư trong nước. Có thể thay đổi việc hưởng chế độ bảo hiểm y tế theo cơ sở khám chữa bệnh đăng ký ban đầu hoặc đưa ra những quy định đặc thù dành riêng cho đối tượng lao động nữ di cư làm việc tự do. Theo đó, nếu khi di cư, người lao động có giấy tờ xác nhận của chính quyền nơi đi và nơi đến là lao động di cư đối với lao động làm việc tự do thì sẽ được hưởng chế độ bảo hiểm tại nơi đến tương tự là nơi đăng ký thăm khám lần đầu hoặc được hỗ trợ với mức cao hơn so với quy định về vượt tuyến.
2.5. Bảo đảm quyền được hưởng an sinh xã hội
Cần sớm cải cách quản lý hộ khẩu để gỡ bỏ những rào cản đối với người di cư nông thôn đến thành thị trong việc tiếp cận với các dịch vụ an sinh xã hội. Bên cạnh đó, cần tăng cường giáo dục nhận thức và trang bị kiến thức cần thiết cho lao động nữ di cư để có những hiểu biết nhất định và thực hiện việc tham gia hệ thống an sinh xã hội đặc biệt là chính sách bảo hiểm xã hội. Trong đó, đặc biệt nhấn mạnh tầm quan trọng của việc ký kết hợp đồng lao động đối với việc thụ hưởng chế độ của bảo hiểm xã hội, từ đó yêu cầu người sử dụng lao động thực hiện nghĩa vụ của mình. Đối với lao động nữ làm việc tự do càng phải tích cực phổ biến pháp luật về chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện và các chế độ được thụ hưởng từ việc tham gia bảo hiểm. Các cơ quan nhà nước và các đoàn thể xã hội nơi đến phải tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm kịp thời, nghiêm khắc việc không thực hiện nghĩa vụ ký kết hợp đồng hoặc cố tình ký kết hợp đồng làm việc ngắn hạn của các doanh nghiệp nhằm trốn tránh trách nhiệm đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động.
Ngoài ra, cần sớm hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm xã hội, trong đó có quy định thêm các chế độ được hưởng của việc tham gia loại hình bảo hiểm xã hội tự nguyện không dừng lại ở hai chế độ hưu trí và tử tuất như hiện nay. Điều này cũng bảo đảm quyền ngang nhau của lao động làm việc theo hợp đồng và lao động làm việc tự do. Đồng thời, giảm mức đóng bảo hiểm xã hội cho đối tượng lao động nữ di cư, không lấy mức lương tối thiểu làm cơ sở xác định mức đóng và có quy định một cơ sở xác định mức đóng thấp hơn và hợp lý hơn.
2.6. Bảo đảm quyền liên quan đến thành viên trong gia đình họ mà cụ thể là quyền của con cái họ
Nhà nước và xã hội phải có sự chú trọng đến việc quan tâm và hỗ trợ trẻ em là con cái của người lao động di cư trong các chính sách hỗ trợ và cả quy định pháp luật. Con cái của người lao động di cư trong các chính sách hỗ trợ và cả quy định pháp luật. Phải xem đây là đối tượng dễ bị tổn thương cần phải đặc biệt quan tâm.
Nhà nước và các đoàn thể xã hội phải thực hiện việc giám sát, kiểm soát chặt chẽ các văn bản dưới luật, quy chế xét tuyển học sinh ở các địa phương có lượng lao động nhập cư lớn đưa ra các điều kiện để được học tập tại các cơ sở giáo dục đào tạo công lập trong đó có điều kiện về hộ khẩu thường trú. Cần phải xóa bỏ việc sử dụng hộ khẩu thường trú làm điều kiện để tiếp cận học tập trường công lập tại thành thị thay vào đó là các giải pháp phù hợp hơn như mở thêm các cơ sở khác của trường công lập, hỗ trợ học phí cho các đối tượng là con của lao động nữ di cư hay tổ chức thi tuyển công khai mà không liên quan đến hộ khẩu thường trú... Bên cạnh đó, Nhà nước và các đoàn thể xã hội tăng cường việc kiểm tra, giám sát và khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện cam kết xây dựng các nhà trẻ cho con cái của lao động nữ.
Dương Thị Hải Yến
[1]. Tổ chức UN Việt Nam, (2010), Di cư trong nước cơ hội và thách thức đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam.
[2]. Viện Khoa học Lao động và Xã hội (2013), Thực trạng di cư trong nước và những vấn đề cần ưu tiên trong chăm sóc sức khỏe, Kỷ yếu Hội thảo Chăm sóc sức khỏe người di cư ở Việt Nam thực trạng và giải pháp, Tổ chức Di cư Thế giới IOM.
[3]. Tổ chức UN Việt Nam, (2010), Di cư trong nước cơ hội và thách thức đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam.