Thứ bảy 21/06/2025 06:17
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Tăng cường công tác quản lý nhà nước về bảo đảm thông tin trên mạng xã hội

Tại Việt Nam, dân số đạt gần 100 triệu người nhưng số lượng người dùng mạng xã hội năm 2021 lên tới khoảng 73,6 triệu người, khoảng 95% người dùng internet. Một số mạng xã hội được sử dụng phổ biến nhất là Facebook, Youtube, Zalo và Instagram. Theo thống kê, năm 2021, lượng người dùng của Youtube tại Việt Nam lên tới khoảng 66,63 triệu người, dự kiến đạt 75,44 triệu người dùng vào năm 2025.

Tóm tắt: Bài viết này nêu rõ những mặt tích cực của mạng xã hội mang lại, đồng thời chỉ ra những hạn chế, nguyên nhân và đưa ra một số giải pháp nhằm tăng cường quản lý nhà nước về bảo đảm thông tin trên mạng xã hội trong thời gian tới.

Abstract: This article highlights the positive aspects brought by social networks, at the same time points out the limitations, causes and offers some solutions to strengthen the state management of information assurance on social networks in the next time.

1. Tác động của mạng xã hội tới đời sống xã hội ở Việt Nam
Cùng với sự gia tăng của toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và phát triển của khoa học công nghệ cũng như cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, thế giới đang chứng kiến những thay đổi căn bản trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Với nền tảng internet, cùng với các mạng viễn thông, các hệ thống máy tính, hệ thống xử lý và điều khiển thông tin, con người đã tạo ra không gian mạng - môi trường đặc biệt mà con người có thể thực hiện được các hành vi không bị giới hạn bởi không gian và thời gian. Theo thống kê, số lượng người sử dụng mạng xã hội trên thế giới hiện có tới 3,5 tỷ người (chiếm 46% tổng dân số toàn cầu), một người thường dành trung bình 02 tiếng 16 phút/ngày truy cập vào mạng xã hội, 91% người sử dụng mạng xã hội truy cập bằng điện thoại thông minh, trong đó, Facebook và Youtube là hai nền tảng mạng xã hội phổ biến nhất tính đến năm 2020[1].


Tại Việt Nam, dân số đạt gần 100 triệu người nhưng số lượng người dùng mạng xã hội năm 2021 lên tới khoảng 73,6 triệu người, khoảng 95% người dùng internet. Một số mạng xã hội được sử dụng phổ biến nhất là Facebook, Youtube, Zalo và Instagram. Theo thống kê, năm 2021, lượng người dùng của Youtube tại Việt Nam lên tới khoảng 66,63 triệu người, dự kiến đạt 75,44 triệu người dùng vào năm 2025[2].


Mạng xã hội là một nền tảng trực tuyến trên môi trường internet, có nhiều dạng thức và tính năng khác nhau, có thể truy cập dễ dàng từ nhiều phương tiện, thiết bị như máy tính bảng, laptop, điện thoại di động… với nội dung phong phú và cách thức sử dụng dễ dàng, mạng xã hội mang lại rất nhiều tiện ích, ý nghĩa thiết thực như củng cố niềm tin của quần chúng nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và điều hành của Chính phủ; góp phần tích cực vào sự phát triển nhận thức, tư duy và kỹ năng sống của con người; đóng góp tích cực vào sự phát triển của văn hóa cộng đồng; thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế trên lĩnh vực văn hóa của Việt Nam… Mạng xã hội cung cấp cho cộng đồng người sử dụng các dịch vụ lưu trữ, tìm kiếm, chia sẻ và trao đổi thông tin, tạo trang thông tin điện tử cá nhân, diễn đàn, trò chuyện trực tuyến, chia sẻ âm thanh, hình ảnh, học tập, nghiên cứu và các hình thức dịch vụ tương tự khác…
Bên cạnh mặt tích cực, mạng xã hội cũng tồn tại không ít những yếu tố tiêu cực, ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường xã hội, lợi ích cộng đồng và tình hình an ninh, trật tự:
Một là, mạng xã hội đã và đang trở thành công cụ hàng đầu để các thế lực thù địch lợi dụng tiến hành phá hoại tư tưởng:Các thế lực thù địch, phản động, đối tượng cơ hội chính trị đã sử dụng mạng xã hội vào các hoạt động tuyên truyền phá hoại tư tưởng của Đảng, tuyên truyền xuyên tạc chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, lợi dụng chiêu bài phản biện xã hội, đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng, bảo vệ môi trường… để đăng tải những bài viết có thông tin xấu, độc, tuyên truyền quan điểm sai trái, thù địch, chống phá Đảng, Nhà nước ta; chúng còn triệt để lợi dụng các tính năng của mạng xã hội để kích động, tập hợp lực lượng tổ chức đấu tranh “bất bạo động”, biểu tình nhằm gây sức ép đối với chính quyền, tạo “điểm nóng” để có cớ kêu gọi sự can thiệp từ bên ngoài…
Hai là, mạng xã hội tác động tiêu cực đối với sự phát triển văn hóa: Mạng xã hội phát triển làm gia tăng nguy cơ xói mòn bản sắc văn hóa dân tộc. Khi mạng xã hội phát triển thì dòng chảy của những cuộc “bá quyền”, “xâm lăng” văn hóa trở nên mạnh mẽ hơn về cường độ, mở rộng về quy mô, tác động đến hầu hết các cá nhân, nhất là bộ phận người trẻ. Xuất hiện các trào lưu tuyên truyền, cổ vũ lối sống tự do cá nhân, thực dụng, văn hóa đồi trụy, bạo lực… đi ngược lại truyền thống văn hóa dân tộc. Tình trạng nhiễu loạn thông tin, thật giả lẫn lộn trên mạng xã hội đang ở mức báo động, ảnh hưởng đến các giá trị văn hóa tốt đẹp của cộng đồng. Hoạt động tung tin đồn, giật gân câu “like” trên mạng xã hội ngày càng gia tăng, gây hoang mang trong dư luận. Một số vụ việc trên mạng xã hội thu hút số lượng rất lớn người quan tâm, theo dõi, hình thành tâm lý đám đông, áp lực dư luận, có thể tạo ra các giá trị lệch lạc hay khuynh hướng phức tạp trong văn hóa ứng xử.
Ba là, mạng xã hội đang trở thành công cụ, môi trường để tội phạm lợi dụng hoạt động: Với đặc tính ảo, mạng xã hội thường xuyên được các đối tượng phạm tội lợi dụng để hoạt động với các thủ đoạn như tạo tài khoản ảo để kết bạn, làm quen, sau đó lừa đảo chiếm đoạt tiền, tài sản; tiến hành đánh cắp mật khẩu, chiếm giữ quyền kiểm soát tài khoản trái phép để thu thập các thông tin cá nhân, nhất là những thông tin bí mật về tài chính, từ đó tìm cách đánh cắp, trục lợi. Một số đối tượng còn sử dụng mạng xã hội làm công cụ liên lạc trong quá trình mua bán, vận chuyển các loại hàng cấm, ma túy, vũ khí, vật liệu nổ và các hoạt động phạm tội khác.
2. Công tác quản lý nhà nước về bảo đảm thông tin trên mạng xã hội
Trong thời gian vừa qua, các cơ quan nhà nước đã triển khai quyết liệt, đồng bộ các giải pháp nhằm tăng cường quản lý nhà nước về bảo đảm thông tin trên mạng xã hội; đấu tranh ngăn chặn thông tin xấu, độc trên mạng xã hội và đã đạt được những kết quả tích cực, cụ thể:
Thứ nhất, tham mưu Quốc hội, Chính phủ ban hành, sửa đổi, bổ sung văn bản quy phạm pháp luật tạo hành lang pháp lý cho hoạt động quản lý nhà nước đối với hoạt động trên mạng xã hội, cụ thể: Luật An toàn thông tin mạng năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2018); Nghị định số 72/2013/NĐ-CP ngày 15/72013 của Chính phủ về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng; Nghị định số 27/2018/NĐ-CP ngày 01/3/2018 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 72/2013/NĐ-CP; Nghị định số 119/2020/NĐ-CP ngày 07/10/2020 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động báo chí, hoạt động xuất bản… Bộ Thông tin và Truyền thông đã ban hành Thông tư số 09/2014/TT-BTTTT ngày 19/8/2014 quy định chi tiết về hoạt động quản lý, cung cấp, sử dụng thông tin trên trang thông tin điện tử và mạng xã hội; Thông tư số 38/2016/TT-BTTTT ngày 26/12/2016 quy định chi tiết về việc cung cấp thông tin công cộng qua biên giới (Thông tư số 38/2016/TT-BTTTT). Bộ Công an đã chủ động nắm tình hình, kịp thời tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 21/CT-TTg ngày 25/5/2020 về tăng cường phòng ngừa, xử lý hoạt động lừa đảo chiếm đoạt tài sản qua mạng xã hội.
Thứ hai, các cơ quan thông tấn, báo chí, truyền hình đã tích cực đưa tin, bài, tăng thời lượng phát sóng, mở các chuyên trang, chuyên mục đấu tranh, phản bác các luận điệu sai trái, thù địch; các hành vi vi phạm pháp luật trên mạng xã hội. Nhiều chương trình truyền hình, báo chí có nội dung sâu sắc, bám sát thực tiễn như: Chương trình “Đối diện” của VTV, “Nhìn thẳng nói đúng” của VOV; “Bình luận - Phê phán” của Báo Nhân dân; chuyên mục “Chống diễn biến hòa bình” của Báo Quân đội nhân dân và Báo Công an nhân dân… đã phản ánh những luận điệu xuyên tạc, lừa bịp của các thế lực thù địch, phản động chống phá Đảng, Nhà nước, dân tộc ta.
Thứ ba, lực lượng chức năng đã phát hiện, xử lý những tổ chức, cá nhân có hành vi sai trái, phát tán thông tin giả, nội dung xấu, độc, phát ngôn thiếu chuẩn mực, các đối tượng lợi dụng quyền tự do ngôn luận có những bài viết trên mạng xã hội tuyên truyền chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ. Nhiều đối tượng lợi dụng đại dịch Covid-19 đăng tin giả mạo gây hoang mang dư luận; buôn bán thuốc giả chữa Covid-19. Cụ thể, trong thời gian chống dịch Covid-19 đợt 01, các cơ quan chức năng đã xử phạt 21 vụ, với số tiền phạt là 203 triệu đồng; nhắc nhở 26 đối tượng tung tin giả mạo[3]. Trong năm 2021, Bộ Thông tin và Truyền thông đã phối hợp với các cơ quan chức năng xử lý, ngăn chặn khoảng 2.000 trang web, hình ảnh, bài viết có chứa các thông tin xấu, độc, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của các tổ chức, cá nhân, sử dụng ngôn ngữ phản cảm, vi phạm thuần phong mỹ tục trên mạng xã hội, gây tác động xấu tới dư luận xã hội, đặc biệt là giới trẻ. Đồng thời, các cơ quan chức năng của Bộ Thông tin và Truyền thông và Sở Thông tin và Truyền thông các tỉnh, thành phố đã phối hợp xử phạt vi phạm hành chính 210 đối tượng với tổng số tiền 1.862.000.000 đồng, hàng trăm trường hợp vi phạm đăng tin xấu độc, vi phạm pháp luật Việt Nam trên mạng xã hội đã bị cảnh cáo, nhắc nhở kịp thời[4].
Thứ tư, công tác kiểm tra, chấn chỉnh các công ty truyền thông hoạt động quảng cáo trên không gian mạng như Facebook, Youtube… được tăng cường. Bộ Thông tin và Truyền thông đã có văn bản yêu cầu các cơ quan báo chí, doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ quảng cáo rà soát hoạt động hợp tác với mạng lưới quảng cáo xuyên biên giới, không để tái diễn tình trạng quảng cáo vi phạm. Đồng thời, phối hợp với Ngân hàng Nhà nước có phương án kiểm soát các giao dịch thanh toán với nước ngoài. Bộ Thông tin và Truyền thông đã chỉ đạo các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ internet (ISP) tăng cường công tác ngăn chặn, xử lý. Mặt khác, trong trường hợp không xác định được nhân thân của tổ chức, cá nhân vi phạm thì Bộ Thông tin và Truyền thông gửi yêu cầu các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ như Google, Youtube, Facebook... thực hiện các biện pháp ngăn chặn, gỡ bỏ theo quy định tại Thông tư số 38/2016/TT-BTTTT.
Những nguyên nhân cơ bản dẫn đến các hành vi vi phạm pháp luật, đăng thông tin xấu, độc trên mạng xã hội thời gian qua là do: (i) Nhận thức của xã hội, đặc biệt là của cơ quan, doanh nghiệp và cá nhân không đồng đều. Các chế tài ngăn ngừa, xử lý hành vi vi phạm pháp luật về sử dụng mạng xã hội chưa đủ sức răn đe và thiếu hiệu quả. (ii) Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về an ninh mạng chưa hoàn thiện, bất cập, chưa theo kịp sự phát triển của thực tế. Nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu công tác phòng ngừa, đấu tranh, xử lý các hành vi vi phạm về sử dụng mạng xã hội. (iii) Tiềm lực quốc gia về an ninh mạng của Việt Nam còn hạn chế, chưa đủ mạnh; năng lực phòng, chống tội phạm tấn công mạng, thông tin xấu độc, vi phạm pháp luật trên mạng xã hội chưa thực sự đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới. (iv) Lực lượng thực thi pháp luật còn thiếu, sự phối hợp giữa các lực lượng chức năng hiệu quả chưa cao; còn tình trạng một số mạng xã hội dựa trên nền tảng xuyên biên giới như Facebook chưa thực sự hợp tác chặt chẽ trong ngăn chặn, gỡ bỏ các nội dung vi phạm pháp luật, thông tin sai sự thật, kích động bạo lực… khi có yêu cầu của các cơ quan chức năng; (v) Công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm có lúc, có nơi còn chưa quyết liệt, thực hiện xử phạt chưa nghiêm…
3. Một số giải pháp nhằm tăng cường quản lý nhà nước về bảo đảm thông tin trên mạng xã hội trong thời gian tới
Phòng, chống hoạt động vi phạm pháp luật nói chung và phòng ngừa tội phạm sử dụng mạng xã hội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân và hệ thống chính trị xã hội, trong đó, lực lượng Công an nhân dân là nòng cốt, cần thực hiện có hiệu quả một số giải pháp sau:
Một là, hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo hành lang pháp lý về an ninh mạng đáp ứng yêu cầu phòng ngừa, đấu tranh, xử lý các hành vi vi phạm về sử dụng mạng xã hội. Cần sửa đổi, bổ sung hệ thống văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh trực tiếp hoạt động cung cấp, sử dụng thông tin trên mạng xã hội theo hướng: Bổ sung các quy định cụ thể về hoạt động cung cấp thông tin công cộng xuyên biên giới vào Việt Nam, nguồn chính sách hỗ trợ phát triển mạng xã hội; tăng các mức chế tài xử phạt bảo đảm tính răn đe…
Hai là, huy động sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị trong đối phó với các đối tượng phạm tội trên mạng xã hội; đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền nâng cao nhận thức cho người dân và doanh nghiệp cung cấp dịch vụ internet nói chung, mạng xã hội nói riêng, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và ý thức chấp hành các quy định của pháp luật khi cung cấp và sử dụng mạng xã hội; đẩy mạnh công tác tuyên truyền cho người dân trong việc nâng cao, trau dồi kiến thức về pháp luật và nghiên cứu, kiểm tra kỹ lưỡng trước khi thực hiện các giao dịch về tài chính, đề phòng trước những khoản đầu tư mang lại “lợi nhuận cao”.
Ba là, triển khai thực hiện có hiệu quả Luật An toàn thông tin mạng và Luật An ninh mạng; đẩy mạnh công tác đấu tranh với các đối tượng lợi dụng mạng xã hội xâm phạm an ninh trật tự; phát hiện, tấn công, vô hiệu hóa các trang mạng xã hội có hành vi tuyên truyền, chống phá Đảng và Nhà nước. Bên cạnh đó, cần có cơ chế để một số mạng xã hội dựa trên nền tảng xuyên biên giới như Facebook, Youtube hợp tác chặt chẽ trong ngăn chặn, gỡ bỏ các nội dung vi phạm pháp luật, thông tin xấu độc, kích động bạo lực.
Bốn là, triển khai đồng bộ, hiệu quả các giải pháp nghiệp vụ trong đấu tranh ngăn chặn hoạt động, hành vi vi phạm pháp luật. Lực lượng chức năng có thẩm quyền cần chủ động nắm tình hình, phát hiện sớm các trang mạng xã hội, diện đối tượng thường xuyên đăng tải, phát tán các thông tin sai sự thật, xuyên tạc; đối tượng thường xuyên truy cập các trang mạng phản động, bình luận nói xấu chế độ, Đảng và Nhà nước…, trên cơ sở đó, có những biện pháp quản lý, phối hợp xử lý nghiêm minh các trang mạng xã hội sai phạm, đối tượng vi phạm nhằm răn đe, không để các đối tượng lợi dụng mạng xã hội để thực hiện hành vi vi phạm.
Năm là, các bộ, ban, ngành cần có sự phối hợp trong hoạt động quản lý nhà nước về bảo đảm an ninh mạng. Thanh tra Sở Thông tin và Truyền thông các địa phương cần phối hợp với lực lượng an ninh mạng và phòng, chống tội phạm công nghệ cao (Bộ Công an) phát hiện, xử lý nghiêm những vi phạm về đăng tin xấu, độc, vi phạm pháp luật, đặc biệt là xử lý các đối tượng có hành vi sai phạm, phát ngôn thiếu chuẩn mực trên mạng xã hội. Xây dựng hệ thống trao đổi thông tin liên ngành, đường dây nóng, lực lượng phản ứng nhanh xử lý thông tin xấu, độc trên mạng xã hội; kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các bộ, ngành liên quan trong ứng phó. Đối với các vụ việc vi phạm từ sử dụng mạng xã hội gây ra hậu quả nghiêm trọng cần phải truy cứu trách nhiệm hình sự.

Đại ủy, ThS. Đỗ Văn Thanh
Học viện Cảnh sát nhân dân, Bộ Công an



[1]. https://blog.growsteak.com/71-thong-ke-du-lieu-xu-huong-ve-social-media-nam-2020.
[2]. https://dichvuseohot.com/thong-ke-nguoi-dung-mang-xa-hoi-tai-viet-nam/.
[3]. https://nhandan.com.vn/dien-dan/tin-gia-va-nguoi-doc-thong-thai-614893/.
[4]. https://mic.gov.vn/mic_2020/Pages/TinTuc/152518/Bo-TT-TT-kien-quyet-ngan-chan—xu-ly-cac-thong-tin-xau-doc-tren-mang-xa-hoi.html.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Đây là chia sẻ của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh khi trao đổi với chúng tôi về 28 nghị định của Chính phủ về phân quyền, phân cấp; phân định thẩm quyền giữa Chính phủ và chính quyền địa phương 02 cấp.
Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 11/6/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 120/2025/NĐ-CP quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 120/2025/NĐ-CP). Nghị định bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động bình thường, liên tục, thông suốt của các cơ quan; không để gián đoạn công việc, không để chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực, địa bàn; không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của xã hội, người dân, doanh nghiệp khi thực hiện chính quyền địa phương hai cấp từ ngày 01/7/2025 trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Nhằm thể chế hoá đầy đủ quan điểm chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phân quyền, phân cấp; bảo đảm việc triển khai nhiệm vụ được thông suốt, hiệu quả, kịp thời, cải cách tối đa thủ tục hành chính, giảm chi phí, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, Chính phủ ban hành Nghị định số 121/2025/NĐ-CP quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 121/2025/NĐ-CP).
Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm