Quản lý nhà nước (QLNN) trong lĩnh vực thi hành án dân sự (THADS) là một bộ phận của QLNN, vì vậy nó có đầy đủ các đặc điểm của hoạt động QLNN nói chung. Đồng thời, QLNN trong lĩnh vực THADS là một lĩnh vực cụ thể, mang tính chất hành chính - tư pháp nên có các đặc thù như:
Thứ nhất, chủ thể tham gia QLNN đối với hoạt động THADS rất đa dạng, không chỉ là các cơ quan nhà nước, mà còn bao gồm cả các tổ chức, cá nhân có liên quan. Chính vì vậy, trong hoạt động QLNN đối với hoạt động THADS, các cá nhân, tổ chức đều có quyền đưa ra góp ý, khuyến nghị và được yêu cầu cơ quan nhà nước tiếp thu hoặc giải trình tiếp thu ý kiến của mình.
Thứ hai, hoạt động QLNN đối với hoạt động THADS là hoạt động QLNN có đối tượng quản lý đặc biệt. Bởi lẽ, cơ sở làm phát sinh hoạt động QLNN trong lĩnh vực THADS là các văn bản áp dụng pháp luật (bản án, quyết định), văn bản liên quan đến hoạt động THADS (quyết định THADS, quyết định hoãn THADS...) của hệ thống các cơ quan thi hành án có thẩm quyền. Hoạt động QLNN trong lĩnh vực THADS do các cơ quan có thẩm quyền tiến hành trên khuôn khổ những quy định của pháp luật về THADS nhằm tác động, điều chỉnh có định hướng đến hành vi của đối tượng quản lý (đối tượng bị thi hành án) nhằm thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra trong lĩnh vực THADS là bảo đảm cho các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật được thi hành chứ không phải là ra các quyết định áp dụng pháp luật hoặc quyết định có tính điều hành, nét đặc trưng của các cơ quan hành chính nhà nước. Mặt khác, hoạt động quản lý của cơ quan quản lý hành chính nhà nước có thẩm quyền trong lĩnh vực THADS có quan hệ chặt chẽ với cơ quan tư pháp (Tòa án). Đối tượng QLNN đối với hoạt động THADS có tính chất đặc biệt quan trọng, quan hệ trực tiếp đến sự ổn định chính trị, xã hội, an ninh.
Thứ ba, QLNN đối với hoạt động THADS là hoạt động có mục đích. Mục tiêu cơ bản của QLNN trong lĩnh vực THADS đó là đảm bảo cho mọi bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật đều phải được thi hành kịp thời, đầy đủ, nghiêm minh và đúng pháp luật, phát huy hiệu lực xét xử của Tòa án, giáo dục nhân dân ý thức tôn trọng pháp luật, phục vụ đắc lực nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thứ tư, QLNN đối với hoạt động THADS đòi hỏi phải tuân thủ trình tự, thủ tục chặt chẽ; tính chất quan trọng của khách thể QLNN trong lĩnh vực THADS đòi hỏi chủ thể quản lý - cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền phải có năng lực quản lý cao, bảo đảm đầy đủ các yếu tố chính trị, tư tưởng, pháp lý, vật chất, lực lượng... cho hoạt động QLNN trong lĩnh vực này.
Thứ năm, phương thức QLNN đối với hoạt động THADS có tính linh hoạt, đa chiều.
Thứ sáu, QLNN đối với hoạt động THADS được xây dựng, hoàn thiện và tăng cường theo xu thế chung của thế giới về QLNN đa ngành và liên ngành.
Điều này đòi hỏi phải xem xét việc quản lý nhà nước đối với hoạt động THADS trong mối tương quan với các hoạt động thi hành án hình sự, hoạt động của luật sư, công chứng và các hoạt động dân sự liên quan đến tài sản và phi tài sản của các chủ thể được thi hành án, phải thi hành án và những người có liên quan. Trước xu thế đó, QLNN đối với hoạt động THADS không thể dừng lại ở nội dung thi hành bản án, quyết định dân sự mà phải bao quát toàn bộ việc thi hành hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài sản, án phí và quyết định dân sự trong bản án, quyết định hình sự, phần tài sản trong bản án, quyết định hành chính của Tòa án, quyết định của Tòa án giải quyết phá sản, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản của bên phải thi hành án và phán quyết, quyết định của trọng tài thương mại.
Thứ bảy, QLNN đối với hoạt động THADS gồm quản lý về tổ chức và quản lý về nghiệp vụ thi hành án, nhằm đảm bảo THADS là hoạt động đưa pháp luật THADS vào đời sống thực tiễn, khắc phục những khó khăn, phức tạp của quá trình quản lý, thúc đẩy các mối quan hệ kinh tế - xã hội phát triển.
Như vậy, có thể nhận thấy, tính chất, mức độ, nội dung của đối tượng bị quản lý đối với hoạt động THADS rất đa dạng, phức tạp. Vì vậy, để QLNN trong từng nội dung THADS có hiệu quả, cần phải quán triệt các nguyên tắc của pháp luật THADS, phải kết hợp chặt chẽ giữa các yếu tố pháp luật và yếu tố chính trị; giữa pháp luật và đạo đức; giữa thẩm quyền của các cơ quan chức năng và sự tham gia của toàn xã hội... Đây là những cơ sở để xác định mô hình chuẩn cho tổ chức bộ máy quản lý, tổ chức cơ quan THADS, đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho công tác quản lý và tổ chức THADS, xây dựng cơ chế quản lý thích hợp với từng loại đối tượng, huy động các công cụ quản lý để nâng cao hiệu quả quản lý...
2. Thực trạng quản lý nhà nước đối với đội ngũ chấp hành viên trong thi hành án dân sự giai đoạn 2011 - 2016
Hoạt động QLNN đối với đội ngũ chấp hành viên (CHV) trong THADS đã được Bộ Tư pháp triển khai tích cực, đồng bộ các giải pháp nhằm tiếp tục kiện toàn một bước về tổ chức bộ máy các cơ quan THADS, đồng thời xây dựng đội ngũ cán bộ THADS trong sạch, vững mạnh, đủ về số lượng, bảo đảm về chất lượng. Hoạt động quy hoạch để tạo nguồn cán bộ lãnh đạo, quản lý thường xuyên được rà soát, bổ sung. Trong đó chú trọng tới hoạt động xây dựng và triển khai kế hoạch luân chuyển cán bộ và kế hoạch chuyển đổi vị trí công tác trong nội bộ các cơ quan THADS. Việc kiện toàn lãnh đạo các Cục, Chi cục THADS, nhất là các địa bàn còn hạn chế, yếu kém hoặc những đơn vị mới thành lập được tập trung giải quyết có chất lượng. Các hình thức và biện pháp tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính được triển khai rộng khắp nhằm mục đích kiên quyết thay thế cán bộ quản lý có vi phạm về phẩm chất đạo đức hoặc hạn chế về năng lực, trình độ nghiệp vụ. Công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức được đổi mới căn bản, có trọng tâm, trọng điểm. Mặt khác, việc tăng cường phòng, chống tiêu cực, tham nhũng trong hoạt động THADS được chú trọng. Trong đó, các hành vi, biểu hiện tham nhũng luôn được nhận diện để có được các biện pháp phòng ngừa tiêu cực, tham nhũng có hiệu quả. Hoạt động tự kiểm tra, kiểm tra và thanh tra, kịp thời phát hiện và kiên quyết xử lý các trường hợp sai phạm được tiến hành thường xuyên.
Bên cạnh kết quả đạt được, thời gian qua, hoạt động QLNN đối với đội ngũ CHV THADS còn bộc lộ những khiếm khuyết như:
Một là, công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành ở một số đơn vị, địa phương còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu, nhiều việc còn chậm, kể cả ở Tổng cục, nhất là các Cục và Chi cục, mặc dù ngay sau khi kết thúc năm công tác, Bộ Tư pháp đã có văn bản đôn đốc các cơ quan THADS chủ động triển khai công tác từ những tháng đầu năm nhưng vẫn có lúc có nơi chưa sâu sát, chưa quyết liệt triển khai công tác, thậm chí qua kiểm tra phát hiện nhiều nơi có dấu hiệu buông lỏng quản lý và đã phải xử lý kỷ luật cả Lãnh đạo Cục, Chi cục...
Hai là, công tác tổ chức cán bộ chưa thực sự có hiệu quả. Chất lượng tham mưu ở cả cấp Tổng cục và cấp Cục còn hạn chế; kỷ cương, kỷ luật tại một số đơn vị còn chưa nghiêm; số lượng công chức vi phạm bị xử lý kỷ luật còn nhiều; vẫn còn có nơi để xảy ra việc nhũng nhiễu, gây phiền hà cho các bên đương sự, gây bức xúc trong dư luận xã hội, ảnh hưởng nghiêm trọng tới hình ảnh cán bộ, công chức cũng như hình ảnh của các cơ quan THADS.
Ba là, trình độ, năng lực của một bộ phận cán bộ, công chức, kể cả cán bộ lãnh đạo quản lý còn chưa đồng đều, chưa theo kịp yêu cầu nhiệm vụ, thậm chí là còn yếu kém trong chỉ đạo, điều hành; đội ngũ công chức ngành thi hành án còn thiếu, đặc biệt là số lượng CHV, thẩm tra viên thi hành án chưa đủ để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ; số cán bộ, công chức trong ngành vi phạm, bị xử lý kỷ luật, nhất là các trường hợp vi phạm, bị khởi tố hình sự có phần gia tăng.
3. Giải pháp tăng cường quản lý nhà nước đối với đội ngũ chấp hành viên thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay
Cần quán triệt tinh thần của Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 17/4/2015 của Bộ Chính trị về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức xác định: Hết sức chú trọng và làm tốt công tác cán bộ, quan tâm xây dựng, kiện toàn đội ngũ công chức bảo đảm cả về số lượng và chất lượng, chú trọng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, ý thức trách nhiệm của đội ngũ công chức thi hành án, nhất là đối với đội ngũ lãnh đạo quản lý và chức danh pháp lý; thực hiện nghiêm túc chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp của cán bộ, công chức, viên chức Ngành Tư pháp, chuẩn mực đạo đức CHV gắn với việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4; đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; tăng cường kỷ luật, kỷ cương; kiên quyết xử lý nghiêm đối với những trường hợp sai phạm để làm trong sạch bộ máy, đẩy mạnh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, phấn đấu xây dựng các cơ quan THADS trong sạch, vững mạnh, toàn diện; đồng thời, quan tâm xây dựng đội ngũ công chức trẻ để tạo nguồn bổ nhiệm thế hệ lãnh đạo kế cận bảo đảm sự phát triển bền vững.
Về đội ngũ CHV, thực tế cho thấy, trong thời gian qua, các cơ quan chức năng đề cập khá nhiều đến tình trạng CHV yếu (trong đó chủ yếu là CHV còn yếu về chuyên môn nghiệp vụ). Điều này đúng nhưng chưa đủ. Qua nghiên cứu cho thấy, có rất nhiều yếu tố hội tụ để khẳng định chất lượng đội ngũ CHV, trong đó không chỉ có yếu tố chuyên môn nghiệp vụ mà còn bao gồm cả yếu tố tinh thần và vị trí xã hội. Thực tế cho thấy, có trường hợp CHV tuy nắm vững chuyên môn nghiệp vụ nhưng không dám quyết định tổ chức cưỡng chế thi hành án. Trong trường hợp này, có thể xem là CHV yếu về bản lĩnh kinh nghiệm nghề nghiệp. Ngược lại, có trường hợp do non kém về nghiệp vụ nên đã thi hành án trái pháp luật. Hay có trường hợp, tuy nội dung vụ việc khá rõ ràng và thuộc thẩm quyền quyết định của mình nhưng do sợ trách nhiệm hoặc vì một lý do nào đó nên đã tìm kiếm sự hỗ trợ, đồng thuận từ phía các cơ quan cấp trên hoặc các cơ quan, ban, ngành có liên quan.
Tinh thần là liều thuốc vô giá đối với mọi hoạt động của con người nói chung và đối với CHV nói riêng. Tinh thần tốt chắc chắn sẽ tạo hưng phấn, đồng nghĩa với hiệu quả công việc cao. Tuy nhiên, với cơ chế hiện nay, tạo yếu tố tinh thần cho CHV vẫn chưa được như mong muốn. THADS là hoạt động vô cùng phức tạp, dễ sai phạm và khó khắc phục. Trong khi đó, cơ chế bảo đảm cho CHV hầu như không có, thiệt hại trong quá trình thi hành án có thể do nhiều cơ quan, cá nhân cùng gây ra, nhưng việc khắc phục hậu quả lại không rõ ràng. Cuối cùng, đương sự chỉ biết “kêu” CHV. Hậu quả, tâm lý “nơm nớp” sợ sai có lẽ luôn thường trực trong hành động của CHV. Chưa kể, yếu tố nguy hiểm do chính quá trình THADS đưa lại cũng rất khó lường. Thế nhưng hầu như chưa có bất kỳ một cơ chế nào để bảo vệ tính mạng, thân thể, danh dự của chính CHV và thân nhân của họ. Ngoài ra, cơ chế bổ nhiệm lại CHV, bên cạnh mặt tích cực hiện cũng đang nảy sinh một số vấn đề cần phải xem xét kỹ, nhất là thời hạn bổ nhiệm lại chỉ 05 năm một lần. Vì vậy, ngoài quy định miễn trừ trách nhiệm bồi thường cho CHV khi người đó không có lỗi thì nên chăng bỏ cơ chế bổ nhiệm lại hoặc kéo dài thêm thời hạn bổ nhiệm.
Về xã hội, công việc của CHV phức tạp, nguy hiểm nhưng vị thế trong xã hội của CHV vẫn chưa thật tương xứng. Nếu nhìn nhận về pháp lý, có vẻ như CHV rất nhiều quyền, nhưng đáng tiếc điều kiện để bảo đảm cho quyền đó được thực hiện hầu như không có. Ví dụ như, cơ sở quan trọng nhất để xác định người phải thi hành án có điều kiện hay không là qua kiểm tra, khám xét nhưng quyền này thì CHV không có. Chưa kể chế tài xử lý đối với trường hợp không chấp hành hoặc chấp hành không đầy đủ quyết định của CHV vẫn chưa nghiêm. Vì vậy, muốn khắc phục được tình trạng CHV yếu thì phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp trong đó có cả giải pháp về chuyên môn nghiệp vụ, giải pháp về tinh thần và xã hội.
Bên cạnh đó, cần phải xây dựng các cơ quan THADS có tổ chức phù hợp, trong sạch, vững mạnh, kỷ luật, kỷ cương, bảo đảm cho hiệu lực và hiệu quả QLNN. Cụ thể:
Thứ nhất, trên cơ sở số liệu thực tiễn các bản án và vụ việc phải THADS cần phải có biện pháp hoàn thiện bộ máy theo hướng không phải cấp quận, huyện nào cũng có cơ quan THADS (chi cục) mà cần phải có các biện pháp sát nhập hai hoặc ba cơ quan THADS (chi cục) để bảo đảm bộ máy THADS không bị cồng kềnh, vừa tiết kiệm cơ sở vật chất cho địa phương, vừa bảo đảm không lãng phí nhân lực, đồng thời đảm bảo cho việc QLNN dễ dàng và bớt chồng chéo. Hiện nay, bộ máy cơ quan THADS là 63 Cục và 710 Chi cục đã tạo nên một bộ máy đồ sộ, gây khó khăn cho việc QLNN đối với hoạt động THADS. So với năm 2011, số lượng chi cục đã nhiều hơn 15 chi cục, lượng biên chế cũng tăng mạnh nên đòi hỏi phải tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy cơ quan quản lý và cơ quan trực tiếp thi hành.
Thứ hai, kiện toàn bộ máy cần đi đôi với đẩy mạnh công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành ở một số đơn vị và địa phương để bảo đảm đáp ứng các yêu cầu công việc. Do vậy, bộ máy cần thống nhất trong tổ chức, thống nhất trong điều hành và triển khai các hoạt động QLNN. Việc kiện toàn bộ máy phải được tiến hành quyết liệt và theo quan điểm hiệu quả.
Tòa án nhân dân Tối cao