Chỉ số Cải thiện chất lượng các quy định pháp luật là một chỉ số thành phần thuộc Bộ Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII). Đây là chỉ số quan trọng thuộc nhóm Chỉ số về môi trường pháp lý, thuộc trụ cột thể chế, được xác định là một trong các yếu tố đầu vào của đổi mới sáng tạo, có ý nghĩa lớn đối với việc cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Từ năm 2014, Chính phủ đã xác định cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, hướng tới phát triển bền vững là một trọng tâm cải cách, là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên. Vì vậy, hàng năm Chính phủ ban hành Nghị quyết về cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia (Nghị quyết số 19/NQ-CP các năm 2014 - 2018 và Nghị quyết số 02/NQ-CP các năm 2019 - 2021) với các mục tiêu, giải pháp cụ thể, bám sát các chỉ số xếp hạng của các tổ chức quốc tế có uy tín đánh giá.
1. Thực trạng điểm số, thứ hạng của Việt Nam tại Chỉ số Cải thiện chất lượng các quy định pháp luật do các tổ chức quốc tế đánh giá
1.1. Đánh giá của các tổ chức quốc tế được Ngân hàng Thế giới sử dụng trong Bộ chỉ số tổng hợp về Quản trị Toàn cầu
(i) Kết quả đánh giá của Bertelsmann Transformation Index (BTI): Chỉ số này được đánh giá theo thang điểm từ 1 đến 10 (sau đó Ngân hàng Thế giới (WB) chuẩn hóa lại theo thang điểm từ 0 - 1). Về Tổ chức thị trường (yếu tố được WB sử dụng trong Bộ chỉ số tổng hợp về Quản trị Toàn cầu (Worldwide Governance Index - WGI)), Việt Nam nhận được điểm số tương đối thấp ưm) và duy trì từ năm 2018 đến năm 2021; năm 2022, điểm số của Việt Nam đã tăng lên, đạt 5/10 điểm (chi tiết xem Bảng 1[1]).
(ii) Kết quả đánh giá của tổ chức Economist Intelligence Unit (EIU): Các chuyên gia của EIU đánh giá theo thang điểm từ 1 - 4, WB chuẩn hóa theo thang điểm từ 0 - 1. Điểm số sau khi WB chuẩn hóa của Việt Nam tương đối đều qua các năm, từ năm 2017 - 2022 dao động trong khoảng 0.4 - 0.5 và có xu hướng giảm trong các năm 2021, 2022 (chi tiết xem Bảng 2[2]).
(iii) Kết quả đánh giá của Quỹ Phát triển nông nghiệp quốc tế (IFAD): Các chuyên gia của IFAD thực hiện đánh giá theo thang điểm 6. Bốn yếu tố trong đánh giá này được WB sử dụng bao gồm: Phát triển dịch vụ tài chính nông thôn, môi trường đầu tư cho doanh nghiệp nông thôn, tiếp cận thị trường đầu vào và thị trường nông sản, chính sách thương mại (bắt đầu được đánh giá từ 2018).
Trong các yếu tố này, hiện nay, chính sách thương mại đạt điểm cao nhất và có xu hướng tăng từ năm 2018. Các chuyên gia của IFAD cũng đánh giá về phát triển dịch vụ tài chính nông thôn, điểm số giai đoạn 2021 - 2022 đã tăng so với giai đoạn 2018 - 2020. Tuy nhiên, môi trường đầu tư cho doanh nghiệp nông thôn và tiếp cận thị trường đầu vào và thị trường nông sản lại có xu hướng giảm điểm trong giai đoạn 2021 - 2022 so với các năm trước đó (chi tiết xem Bảng 3[3]).
(iv) Kết quả đánh giá của Quỹ Heritage Foundation (HER): Chỉ số HER được đánh giá trên thang điểm 100. WB sử dụng kết quả đánh giá của HER đối với hai yếu tố “Tự do đầu tư” và “Tự do tài chính” cho Chỉ số Cải thiện chất lượng các quy định pháp luật. Việt Nam từng đạt điểm cao nhất là 40 về tự do đầu tư và 50 về tự do tài chính (từ năm 2019 đến nay).
Từ điểm số của hai yếu tố trên, WB đã tổng hợp, tính toán và chuẩn hóa theo thang điểm từ 0 - 1. Theo đó, điểm số của Việt Nam theo đánh giá của HER được WB sử dụng trong WGI đạt 0.53 điểm trong giai đoạn 2017 - 2020 và sau đó giảm xuống 0.45 điểm trong hai năm gần đây (chi tiết xem Bảng 4[4]).
(v) Kết quả đánh giá của tổ chức Global Insight Business Risk and Conditions (WMO): Chỉ số Cải thiện chất lượng các quy định pháp luật sử dụng điểm số của “gánh nặng” quy định và sự không nhất quán về thuế của WMO. Trong giai đoạn 2017 - 2022, điểm số của chỉ số WMO (đã được WB quy chuẩn theo thang điểm 0 - 1) có xu hướng giảm (từ 0.75 năm 2017 xuống 0.58 vào năm 2022) (chi tiết xem Bảng 5[5]).
(vi) Kết quả đánh giá của tổ chức Political Risk Services (PRS): Có 12 yếu tố rủi ro khác nhau của môi trường chính trị và kinh doanh mà các công ty đang hoạt động trong một quốc gia có thể gặp phải được đánh giá theo PRS. Từ năm 2017 đến nay, năm 2020, Việt Nam đạt điểm cao nhất là 0.73. Kết quả đánh giá gần đây nhất (năm 2022), Việt Nam đạt 0.64 điểm, bằng điểm với năm 2017 (chi tiết xem Bảng 6[6]).
(vii) Kết quả đánh giá của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF): Các doanh nghiệp đánh giá theo thang điểm từ 1 - 7 cho từng yếu tố. Căn cứ vào điểm số do doanh nghiệp đánh giá theo từng yếu tố đó, WB tính toán, tổng hợp và chuẩn hóa theo thang điểm từ 0 - 1. Từ năm 2017 đến nay, điểm số của Việt Nam được WB chuẩn hóa từ kết quả của WEF có xu hướng cải thiện, từ 0.46 điểm năm 2017 đã tăng lên 0.51 điểm năm 2022 (chi tiết xem Bảng 7[7]).
(viii) Kết quả đánh giá của Dự án World Justice Project Rule Of Law Index (WJP): Người dân và chuyên gia thực hiện đánh giá thông qua trả lời bảng hỏi khảo sát, sau đó dự án WJP tính toán theo thang điểm từ 0 - 1. Trong 05 tiêu chí đánh giá về thực thi pháp luật được WB sử dụng cho Chỉ số Cải thiện chất lượng các quy định pháp luật, tiêu chí các quy định pháp luật được thực thi hiệu quả có điểm số cao nhất và có xu hướng cải thiện từ các năm 2017, 2018 đến nay (giảm từ 0.45 điểm xuống 0.44 điểm). Xét theo điểm số tổng hợp đối với cả 05 tiêu chí, từ năm 2017 đến nay cho thấy không có thay đổi rõ rệt, điểm số dao động ở mức 0.45 điểm (giai đoạn 2017 - 2020) và sau đó lại giảm xuống 0.44 điểm (chi tiết xem Bảng 8[8]).
Do thang điểm của WJP là thang điểm từ 0 - 1 nên WB không chuẩn hóa lại mà sử dụng luôn điểm số về Thực thi pháp luật của WJP.
1.2. Chỉ số Cải thiện chất lượng các quy định pháp luật theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới
Trên cơ sở điểm số của 08 nguồn đánh giá nêu trên, WB đã tính toán, tổng hợp để cho ra điểm của Chỉ số Cải thiện chất lượng các quy định pháp luật. Điểm của chỉ số này được tính toán theo thang điểm từ -2.5 (thấp nhất) đến 2.5 (cao nhất). Từ năm 2017 đến năm 2020, điểm của Việt Nam có xu hướng cải thiện hơn, từ -0.43 năm 2017 lên -0.24 năm 2020 nhưng sau đó lại giảm xuống -0.40 năm 2021 và -0.43 năm 2022 (chi tiết xem Bảng 9[9]).
1.3. Chỉ số Cải thiện chất lượng các quy định pháp luật theo đánh giá của Tổ chức Sở hữu trí tuệ Thế giới
Tổ chức Sở hữu trí tuệ Thế giới (WIPO) công bố GII hàng năm và lấy tên năm công bố là năm báo cáo (ví dụ, công bố báo cáo năm 2023 và lấy tên báo cáo là GII 2023). Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là năm dữ liệu cho các chỉ số của GII là năm công bố báo cáo (tức là, Báo cáo GII 2023 nhưng dữ liệu của các chỉ số không phải của năm 2023). WIPO kết thúc việc thu thập dữ liệu từ các tổ chức quốc tế vào cuối tháng 3 hàng năm, do vậy, dữ liệu cập nhật nhất có thể là năm liền trước hoặc năm trước đó nữa. WIPO chấp nhận dữ liệu trong vòng 10 năm tính từ năm báo cáo được công bố (ví dụ, GII 2023 cho phép sử dụng dữ liệu từ năm 2013 đến năm 2023). Đối với Chỉ số Cải thiện chất lượng các quy định pháp luật, dữ liệu của WB so với năm báo cáo GII công bố có khoảng cách 02 năm. Ví dụ, GII 2023 sử dụng dữ liệu năm 2021 của WB, vì tại thời điểm cuối tháng 3/2023, WB chỉ có dữ liệu mới nhất là năm 2021, chưa có dữ liệu của năm 2022.
Trên cơ sở điểm số theo thang điểm từ -2.5 đến 2.5 của WGI đối với Chỉ số Cải thiện chất lượng các quy định pháp luật, tổ chức WIPO sẽ chuẩn hóa lại theo thang điểm từ 0 - 100 với phương pháp min - max. Dựa vào số điểm đã được chuẩn hóa, thứ hạng sẽ được sắp xếp lần lượt từ cao đến thấp.
Theo báo cáo GII năm 2023, Việt Nam xếp hạng 94/132 quốc gia về Chỉ số Cải thiện chất lượng các quy định pháp luật, với điểm số được chuẩn hóa lại là 31.8 điểm. Điểm số này giảm gần 10 điểm so với GII năm 2022, khi đó, Việt Nam xếp hạng 83/132 quốc gia, với điểm số được chuẩn hóa lại là 41.2 điểm (chi tiết xem Bảng 10[10]).
Nhìn chung, thứ hạng và điểm số của Việt Nam về Chỉ số Cải thiện chất lượng các quy định pháp luật theo các đánh giá quốc tế hiện nay ở mức chưa cao. Tuy có sự thăng hạng nhưng điểm số Việt Nam không có sự tăng trưởng đáng kể, chỉ tăng nhẹ 2.4 điểm từ 29.4 điểm năm 2017 lên 31.8 điểm năm 2023. Với kết quả Chỉ số Cải thiện chất lượng các quy định pháp luật theo đánh giá của WB năm 2022 là -0.43, có thể Chỉ số này của Việt Nam trong GII 2024 sẽ không có sự cải thiện về điểm số và thứ hạng.
Thực tế cho thấy, Việt Nam vẫn còn không gian lớn để phát triển nâng cao Chỉ số Cải thiện chất lượng các quy định pháp luật. Điều quan trọng là, Chính phủ cần phải xác định được nguyên nhân, điểm yếu, điểm mạnh cũng như cơ hội và thách thức mà Việt Nam cần tập trung trong giai đoạn tiếp theo.
2. Một số hạn chế trong đánh giá Chỉ số Cải thiện chất lượng các quy định pháp luật của Việt Nam
2.1. Về khách quan
- Số liệu, thông tin mà các chuyên gia, tổ chức quốc tế được cung cấp, khảo sát có độ trễ nhất định về mặt thời gian (từ 02 - 03 năm) nên có thể chưa thực sự phản ánh kịp thời, chính xác chất lượng quy định pháp luật trong các lĩnh vực được tổ chức quốc tế đánh giá.
- Chưa có cơ chế phản biện lại đánh giá của các tổ chức quốc tế, Chỉ số được đánh giá bởi các tổ chức nước ngoài độc lập. Tuy nhiên, việc đánh giá này chưa có thông tin đối chứng, kiểm định để bảo đảm kết quả phản ánh đúng thực tế khách quan. Thực tế cho thấy, đa số là các khảo sát mang định tính và sử dụng dữ liệu mềm trong công nghệ, do đó, có thể dẫn tới kết quả chưa khách quan. Cụ thể, Chỉ số Cải thiện chất lượng các quy định pháp luật của Việt Nam được GWI sử dụng từ 08 nguồn, trong đó có 07 nguồn là dữ liệu mềm. Mặt khác, ở trong nước không có các khảo sát, đánh giá tương tự để đối chiếu và so sánh. Một số đánh giá có tương đồng gồm Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI), Chỉ số cải cách hành chính của các bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (PAR Index) nhưng phương pháp, cách tiếp cận khác nhau nên khó tiến hành để so sánh. Các cơ quan ban hành hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành các quy định pháp luật Việt Nam không có cơ hội, điều kiện để cung cấp thông tin, phản biện lại các đánh giá của các tổ chức quốc tế.
2.2. Về chủ quan
- Hệ thống pháp luật của Việt Nam nói chung và các lĩnh vực pháp luật mà các tổ chức quốc tế lựa chọn đánh giá nói riêng có sự cải thiện nhưng nhìn chung vẫn còn những bất cập dưới góc độ đánh giá của các tổ chức quốc tế như tính ổn định chưa cao, chậm ban hành văn bản dưới luật, một số quy định pháp luật còn chồng chéo, mâu thuẫn, gây khó khăn, cản trở hoạt động sản xuất, kinh doanh nhưng còn chậm được rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ.
- Việc đánh giá của các tổ chức quốc tế chủ yếu dựa vào sự cảm nhận, đánh giá về quản trị theo ý kiến của những người tham gia khảo sát, các tổ chức phi Chính phủ, các tổ chức tư và các tổ chức công trên toàn thế giới, do đó, có thể mang tính chủ quan của cá nhân, cơ quan, tổ chức được khảo sát, cho ý kiến.
3. Kiến nghị, giải pháp nâng cao điểm số, thứ hạng của Việt Nam theo Chỉ số Cải thiện chất lượng các quy định của pháp luật
3.1. Cải thiện chất lượng các quy định pháp luật của Việt Nam
3.1.1. Đối với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
Thứ nhất, tiếp tục quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo để thể chế hóa kịp thời, đầy đủ các chỉ thị, nghị quyết, kết luận của Bộ Chính trị, Ban Bí thư liên quan đến công tác xây dựng pháp luật, các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ, Ngành Tư pháp. Chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương tổ chức thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới (Nghị quyết số 27-NQ/TW); thực hiện tốt Kế hoạch số 11/KH-TW ngày 28/11/2022 của Bộ Chính trị thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW; Nghị quyết số 77/NQ-CP ngày 12/5/2023 của Chính phủ về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW; Quy định số 69-QĐ/TW ngày 06/7/2022 của Bộ Chính trị về kỷ luật tổ chức đảng, đảng viên vi phạm (Quy định số 69-QĐ/TW); Nghị quyết số 126/NQ-CP ngày 14/8/2023 của Chính phủ về một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật nhằm ngăn ngừa tình trạng tham nhũng, lợi ích nhóm, lợi ích cục bộ (Nghị quyết số 126/NQ-CP); Chỉ thị số 43/CT-TTg ngày 11/12/2020 của Thủ tướng Chính phủ về nâng cao chất lượng công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tăng cường hiệu quả thi hành pháp luật.
Thứ hai, tiếp tục chỉ đạo các bộ, ngành và địa phương ưu tiên, phân bổ nguồn lực đầu tư cho công tác xây dựng, kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật; sớm sửa đổi, bổ sung Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020) và các văn bản hướng dẫn thi hành nhằm tiếp tục đổi mới, hoàn thiện quy trình xây dựng pháp luật bảo đảm chuyên nghiệp, khoa học, kịp thời, khả thi, hiệu quả.
Thứ ba, tiếp tục chỉ đạo về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh hàng năm của Quốc hội bảo đảm tiến độ và chất lượng; xử lý triệt để tình trạng chậm, nợ ban hành văn bản quy định chi tiết; kiểm điểm, xác định rõ hình thức xử lý trách nhiệm đối với cơ quan, cá nhân, nhất là đối với người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong việc để chậm ban hành văn bản.
Thứ tư, chỉ đạo các bộ, ngành và địa phương tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong công tác xây dựng, ban hành văn bản nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành.
Thứ năm, chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương tổ chức thực hiện có hiệu quả công tác rà soát văn bản quy phạm pháp luật thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của các bộ, cơ quan ngang bộ và nhiệm vụ của Tổ công tác của Thủ tướng Chính phủ về rà soát văn bản quy phạm pháp luật theo các quyết định của Thủ tướng Chính phủ, nghị quyết của Chính phủ, công văn chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và chỉ đạo, đề nghị có liên quan khác của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
3.1.2. Đối với bộ, ngành, địa phương
Thứ nhất, về công tác chỉ đạo, điều hành: Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp trực tiếp chỉ đạo công tác xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật; tiếp tục siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong công tác này; đồng thời phân công rõ trách nhiệm của từng đơn vị, cá nhân trong việc nghiên cứu, soạn thảo, trình văn bản; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong các khâu xây dựng văn bản. Thường xuyên kiểm tra, kiểm điểm rõ trách nhiệm và có hình thức xử lý đối với đơn vị, cá nhân để xảy ra tình trạng chậm tiến độ và không bảo đảm chất lượng văn bản; cương quyết không xem xét khen thưởng các tổ chức, cá nhân để xảy ra tình trạng nợ ban hành văn bản. Kịp thời ban hành văn bản chỉ đạo, điều hành tại bộ, ngành, địa phương trên cơ sở các văn bản chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, hướng dẫn của bộ quản lý ngành nhằm nâng hạng Chỉ số Cải thiện chất lượng các quy định pháp luật trong thời gian tới; tăng cường hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân đối với công tác xây dựng pháp luật tại địa phương.
Thứ hai, trong quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật để ban hành hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành cần phải tuân thủ Quy định số 69-QĐ/TW và Nghị quyết số 126/NQ-CP; thực hiện nghiêm các quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020) và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành.
Thứ ba, công tác rà soát, kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật: Thực hiện nghiêm túc, đúng quy định về thẩm quyền, trách nhiệm trong công tác kiểm tra, rà soát, xử lý văn bản quy phạm pháp luật theo quy định; kịp thời phát hiện, xử lý hoặc kiến nghị xử lý văn bản có quy định trái pháp luật. Khẩn trương xử lý các văn bản quy phạm pháp luật có nội dung mâu thuẫn, chồng chéo, thiếu thống nhất, không còn phù hợp với thực tiễn. Các bộ, ngành chủ động công bố danh mục văn bản quy phạm pháp luật đã hết hiệu lực thi hành tạo điều kiện thuận lợi cho các địa phương trong việc tra cứu, theo dõi, thực hiện.
Thứ tư, bảo đảm nguồn lực về biên chế, kinh phí cho công tác xây dựng pháp luật và công tác kiểm tra, rà soát, hợp nhất, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật: Ưu tiên, tập trung thời gian, nguồn lực cho công tác này; tiếp tục củng cố, kiện toàn tổ chức pháp chế theo quy định của Nghị định số 56/2024/NĐ-CP ngày 18/5/2024 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 55/2011/NĐ-CP ngày 04/7/2011 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của tổ chức pháp chế; nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn của đội ngũ công chức làm công tác xây dựng pháp luật, pháp chế theo hướng chuyên nghiệp và hiện đại, đáp ứng các yêu cầu công việc đặt ra.
Thứ năm, Bộ, Ngành Tư pháp nghiên cứu, xây dựng Bộ tiêu chí đánh giá Chỉ số Cải thiện chất lượng các quy định pháp luật của Việt Nam để làm cơ sở đánh giá, đo lường một cách chính xác, khoa học trong việc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
3.2. Về cung cấp thông tin để các tổ chức quốc tế đánh giá bảo đảm khách quan, chính xác
Thứ nhất, cung cấp thông tin thông qua kênh hợp tác của cơ quan nhà nước: Thực tế cho thấy, các bộ, ngành, cơ quan của Việt Nam có nhiều kênh hợp tác với các tổ chức, cụ thể là WIPO, WB, WEF, Trung tâm Năng lực về Chỉ số và Bảng tính điểm tổng hợp của Ủy ban châu Âu... Việc tiếp cận thông qua các báo cáo quốc gia, các hội thảo và hoạt động trao đổi thông tin thường xuyên về các quy định của pháp luật liên quan đến đổi mới sáng tạo cần được thiết lập, duy trì ổn định. Theo đó, Việt Nam cần xây dựng một lộ trình chính sách rõ ràng và cung cấp thông tin một cách tổng thể cho các đối tác nước ngoài. Mặt khác, các chủ thể nghiên cứu có thể đưa ra phương án đánh giá ổn định hơn qua các năm. Do vậy, cần thiết lập một mạng lưới các cơ quan nhà nước nhằm thúc đẩy chính sách, hoạt động đổi mới sáng tạo. Từ đó, khi có một hoặc một nhóm chuyên gia đánh giá, làm việc với cơ quan nhà nước đều sẽ được tiếp nhận thông tin một cách tổng thể, có lộ trình phù hợp, rõ ràng.
Thứ hai, cung cấp thông tin thông qua kênh hợp tác của tư nhân và các chủ thể đổi mới sáng tạo: Việt Nam có mạng lưới, cộng đồng các doanh nghiệp đổi mới sáng tạo (Start-up) là những chủ thể tham gia trực tiếp vào quá trình đổi mới sáng tạo của quốc gia. Do vậy, việc tuyên truyền, hỗ trợ pháp lý và tham vấn chính sách cần hướng trực tiếp đến các đối tượng này. Theo đó, Bộ Tư pháp cần phát huy hơn nữa vai trò của Chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành cho doanh nghiệp nhỏ và vừa để tiếp cận, hỗ trợ các doanh nghiệp đổi mới sáng tạo trong mạng lưới. Đồng thời, các bộ, ngành, địa phương cần tăng cường hơn nữa công tác truyền thông chính sách trong giai đoạn xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật cũng như đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật để các cơ quan, tổ chức, cá nhân có nhận thức đầy đủ về các quy định pháp luật và thực thi hiệu quả, giúp cho quá trình được khảo sát, đánh giá được chính xác hơn. Thông qua các chủ thể trực tiếp tham gia đánh giá trong các khảo sát hoặc thông qua mạng lưới độc lập của nhóm tác giả GII sẽ giúp các chủ thể đổi mới sáng tạo, các tổ chức quốc tế hiểu hơn về các chính sách pháp luật của Việt Nam, từ đó đưa ra những đánh giá khách quan, sát nhất với những nỗ lực và kết quả đạt được của Việt Nam trong lĩnh vực này.
Nhìn chung, điểm số và thứ hạng Chỉ số Cải thiện chất lượng các quy định pháp luật của Việt Nam theo đánh giá của các tổ chức quốc tế hiện nay đều đang ở mức tương đối thấp, có sự tăng, giảm không đều qua các năm. Với vị trí và thứ hạng hiện tại, Việt Nam vẫn còn không gian lớn để nâng cao điểm số và thứ hạng của Chỉ số này trong thời gian tới. Theo đó, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ cần quan tâm và chỉ đạo sát sao hơn nữa để có giải pháp cải thiện chất lượng quy định pháp luật, nhằm tạo ra môi trường kinh doanh minh bạch, ổn định, thu hút đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam, nâng tầm vị thế đất nước trong khu vực và thế giới./.
Nguyễn Hồng Tuyến
Vụ trưởng Vụ Pháp luật, Văn phòng Chính phủ
Nguyễn Trà My
Vụ Các vấn đề chung về xây dựng pháp luật, Bộ Tư pháp
[1]. Bảng 1: Điểm số đánh giá BTI của Việt Nam đã được WB chuẩn hóa giai đoạn 2018 - 2022
Năm |
2018 - 2019 |
2021 |
2022 |
Việt Nam |
4 |
4 |
5 |
Nguồn: Cơ sở dữ liệu World Bank, https://www.worldbank.org/en/publication/worldwide-governance-indicators, truy cập ngày 20/8/2024.
[2]. Bảng 2: Điểm số đánh giá EIU của Việt Nam đã được WB chuẩn hóa giai đoạn 2017 - 2022
Năm |
2017 |
2018 |
2019 |
2020 |
2021 |
2022 |
Việt Nam |
0.5 |
0.5 |
0.5 |
0.5 |
0.4 |
0.4 |
Nguồn: Cơ sở dữ liệu World Bank, https://www.worldbank.org/en/publication/worldwide-governance-indicators, truy cập ngày 20/8/2024.
[3]. Bảng 3: Điểm số các yếu tố liên quan đến chất lượng các quy định của pháp luật theo đánh giá của IFAD đối với Việt Nam giai đoạn 2015 - 2022
Nội dung đánh giá |
2015 - 2017 |
2018 - 2020 |
2021 - 2022 |
Tạo điều kiện cho phát triển dịch vụ tài chính nông thôn |
4.25 |
2.73 |
3.1 |
Môi trường đầu tư cho doanh nghiệp nông thôn |
4.67 |
3.42 |
2.6 |
Tiếp cận thị trường đầu vào và thị trường nông sản |
4 |
3.70 |
2.9 |
Chính sách thương mại |
- |
4.33 |
4.7 |
Nguồn: Cơ sở dữ liệu World Bank, https://www.worldbank.org/en/publication/worldwide-governance-indicators, truy cập ngày 20/8/2024.
[4]. Bảng 4: Điểm số HER của Việt Nam đối với các yếu tố được WB sử dụng cho Chỉ số Cải thiện chất lượng các quy định pháp luật
Năm |
Tự do đầu tư |
Tự do tài chính |
2022 |
40 |
50 |
2021 |
40 |
50 |
2020 |
40 |
50 |
2019 |
40 |
50 |
2018 |
30 |
40 |
2017 |
25 |
40 |
Nguồn: Cơ sở dữ liệu World Bank, https://www.worldbank.org/en/publication/worldwide-governance-indicators, truy cập ngày 20/8/2024.
[5]. Bảng 5: Điểm số theo đánh giá WMO của Việt Nam được WB quy đổi giai đoạn 2016 - 2022
Năm |
2017 |
2018 |
2019 |
2020 |
2021 |
2022 |
Việt Nam |
0.75 |
0.75 |
0.67 |
0.67 |
0.67 |
0.58 |
Nguồn: Cơ sở dữ liệu World Bank, truy cập ngày 20/8/2024.
[6]. Bảng 6: Điểm số đánh giá PRS của Việt Nam được WB chuẩn hóa giai đoạn 2017 - 2022
Năm |
2017 |
2018 |
2019 |
2020 |
2021 |
2022 |
Việt Nam |
0.64 |
0.68 |
0.68 |
0.73 |
0.68 |
0.64 |
Nguồn: Cơ sở dữ liệu World Bank, https://www.worldbank.org/en/publication/worldwide-governance-indicators, truy cập ngày 20/8/2024.
[7]. Bảng 7: Điểm số đánh giá WEF của Việt Nam được WB chuẩn hóa giai đoạn 2016 - 2022
Năm |
2017 |
2018 |
2019 |
2020 |
2021 |
2022 |
Việt Nam |
0.46 |
0.46 |
0.46 |
0.51 |
0.54 |
0.51 |
Nguồn: Cơ sở dữ liệu World Bank, https://www.worldbank.org/en/publication/worldwide-governance-indicators, truy cập ngày 20/8/2024.
[8]. Bảng 8: Điểm số WJI của Việt Nam cho các yếu tố về thực thi pháp luật
Nội dung đánh giá |
2017 - 2018 |
2019 |
2020 |
2021 |
2022 |
Thực thi pháp luật |
0.45 |
0.45 |
0.45 |
0.44 |
0.44 |
1. Các quy định pháp luật được thực thi hiệu quả |
0.54 |
0.56 |
0.59 |
0.59 |
0.59 |
2. Các quy định pháp luật được áp dụng và thực thi mà không bị tác động méo mó |
0.40 |
0.39 |
0.42 |
0.39 |
0.40 |
3. Các thủ tục hành chính không có sự chậm trễ vô lý |
0.48 |
0.50 |
0.48 |
0.46 |
0.48 |
4. Quy trình xử lí hành chính được tôn trọng |
0.46 |
0.41 |
0.38 |
0.36 |
0.33 |
5. Chính phủ không tịch thu tài sản mà không có thủ tục pháp lý và bồi thường thỏa đáng |
0.36 |
0.38 |
0.41 |
0.41 |
0.42 |
Nguồn: Cơ sở dữ liệu World Bank, https://www.worldbank.org/en/publication/worldwide-governance-indicators, truy cập ngày 20/8/2024.
[9]. Bảng 9: Điểm của Việt Nam đối với chỉ số Chất lượng của các quy định của pháp luật theo đánh giá của WB
Năm |
2017 |
2018 |
2019 |
2020 |
2021 |
2022 |
Việt Nam |
-0.43 |
-0.37 |
-0.38 |
-0.24 |
-0.40 |
-0.43 |
Nguồn: Cơ sở dữ liệu World Bank, https://www.worldbank.org/en/publication/worldwide-governance-indicators, truy cập ngày 20/8/2024.
[10]. Bảng 10: Giá trị, điểm số, thứ hạng Chỉ số Cải thiện chất lượng các quy định pháp luật theo WIPO của Việt Nam
Năm |
Giá trị gốc theo WGI |
Điểm số |
Thứ hạng |
GII 2017 |
-0.51 (2015) |
29.4 |
100 |
GII 2018 |
-0.50 (2016) |
32.5 |
99 |
GII 2019 |
-0.43 (2017) |
31.3 |
97 |
GII 2020 |
-0.37 (2018) |
31.6 |
99 |
GII 2021 |
-0.38 (2019) |
36.6 |
93 |
GII 2022 |
-0.24 (2020) |
41.2 |
83 |
GII 2023 |
-0.40 (2021) |
31.8 |
94 |
Nguồn: Cơ sở dữ liệu của WB (https://www.worldbank.org/en/publication/worldwide-governance-indicators), Cơ sở dữ liệu của WIPO (https://www.wipo.int/global_innovation_index/en/2023/), truy cập ngày 20/8/2024.
(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 1 (Số 410), tháng 8/2024)