Tại bất kỳ một quốc gia nào, để phát triển kinh tế thì việc cung cấp điện không được gián đoạn. Vị thế của một quốc gia cũng sẽ được nâng tầm nếu quốc gia đó có các nhà máy điện nguyên tử, là nền tảng phát triển kinh tế - xã hội của mọi quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới. Nhưng vấn đề đặt ra là, nếu chúng ta muốn gia tăng các nguồn năng lượng từ nhiên liệu hóa thạch thì lại gây ra hiện tượng khí thải nhà kính. Và đây chính là sự mâu thuẫn, là bài toán hóc búa với mọi quốc gia trên thế giới. Chính vì vậy, phát triển năng lượng tái tạo, năng lượng xanh, đặc biệt là điện nguyên tử đã được nhiều quốc gia trên thế giới lựa chọn.
Theo Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA), ngoài việc tạo ra điện sạch, năng lượng tạo ra từ điện nguyên tử có thể được sử dụng để lọc nước biển với quy mô rất lớn, góp phần giải quyết tình trạng thiếu nước sạch mà hơn một nửa dân số thế giới sẽ phải đối mặt vào năm 2025. Ðặc biệt, các công nghệ hạt nhân còn giúp con người trong y học, nông nghiệp, công nghiệp, khoa học môi trường.
Thấy được việc phát triển sử dụng năng lượng nguyên tử ở nước ta là tất yếu, Việt Nam đã tích cực xúc tiến triển khai xây dựng những lò phản ứng hạt nhân và ký kết các thỏa thuận hợp tác với một số nước phát triển trong lĩnh vực này. Qua hơn 06 năm thi hành, Luật Năng lượng nguyên tử năm 2008 đã tạo bước chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức của cán bộ các ngành, các cấp và người dân về vai trò của ứng dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, về tầm quan trọng của việc đảm bảo an toàn, an ninh cho các ứng dụng đó.
Nhìn một cách tổng thể, Luật Năng lượng nguyên tử năm 2008 hiện hành đã bao hàm tương đối đầy đủ các nội dung cơ bản và quan trọng, phù hợp với các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện cũng cho thấy một số bất cập, đặc biệt còn một số quy định trong Luật còn chưa phù hợp với các yêu cầu, tiêu chuẩn khuyến cáo của Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA) và thông lệ quốc tế. Một số nội dung quan trọng còn chưa được quy định, cập nhật trong Luật Năng lượng nguyên tử năm 2008. Quá trình thực hiện Luật này đã bộc lộ một số bất cập mang cần tiếp tục nghiên cứu xem xét như: Cơ quan chịu trách nhiệm cấp phép, trách nhiệm thẩm định để phê duyệt, cấp phép còn quy định chồng chéo, thậm chí giao cho cơ quan tư vấn (được thành lập tạm thời) chịu trách nhiệm.
Để khắc phục những bất cập, vướng mắc, không khả thi bộc lộ trong quá trình thực thi Luật này, việc bổ sung, đảm bảo đầy đủ các nội dung cơ bản theo yêu cầu quản lý, phù hợp với luật pháp quốc gia và thông lệ quốc tế, đảm bảo tính phù hợp, tính thống nhất của Luật Năng lượng nguyên tử năm 2008 với Hiến pháp năm 2013, với các luật có liên quan (đặc biệt là các luật vừa được sửa đổi, bổ sung trong giai đoạn từ 2008 đến nay), với các điều ước quốc tế đang có hiệu lực mà Việt Nam là thành viên là yêu cầu mang tính cấp thiết và đặc biệt quan trọng.
Các văn bản pháp lý trong an toàn hạt nhân đối với điện nguyên tử cho đến nay vẫn còn những bất cập. Về cơ chế giám sát, có 02 yếu tố: Một là, chủ đầu tư phải đủ năng lực để quản lý, đảm bảo an toàn cho nhà máy; Hai là, cơ quan quản lý hay còn gọi là cơ quan pháp quy phải thực hiện tốt chức năng giám sát. Tuy vậy, luật hiện hành vẫn chưa có quy định rõ ràng, hiệu quả cho đối với chức năng thanh tra - kiểm tra và giám sát tính an toàn của các nhà máy.
Việc cấp phép hiện nay chia quá nhiều đầu mối: Cấp phép xây dựng do Bộ Khoa học & Công nghệ, còn cấp phép vận hành do Bộ Công thương. Trong khi đó, Bộ Công thương lại là cơ quan chủ quản, điều này vi phạm nguyên tắc độc lập trong vấn đề quản lý an toàn quốc tế. Trong quá trình nghiên cứu sửa đổi Luật Năng lượng nguyên tử năm 2008, chúng ta cũng đang nghiên cứu một mô hình quản lý giám sát về điện nguyên tử, đảm bảo các quyết định không bị chi phối bởi bất kỳ điều gì, nếu nhà máy không đảm bảo an toàn sẽ không được vận hành.
Thực tiễn cho thấy, các cơ quan chức năng cần tiếp tục nghiên cứu các quy phạm pháp lý an toàn hạt nhân liên quan đến nhà máy điện nguyên tử là đặc biệt quan trọng. Sau sự cố nhà máy điện nguyên tử Fukushima, tháng 3/2011, Nhật Bản đã xây dựng và thực hiện 30 biện pháp trong Pháp quy hạt nhân mới để vận hành các nhà máy điện nguyên tử với nội dung ngăn ngừa mất chức năng do lỗi thông thường, ngăn ngừa tai nạn nghiêm trọng và ngăn chặn việc thoát phóng xạ. Các biện pháp bắt buộc các nhà máy điện nguyên tử phải chịu được các trận động đất lên tới 1260 Gal và sóng thần cao tới 11,4 mét trên mực nước biển nhờ có việc đảm bảo nguồn điện và nước làm mát [5].
Hiện nay, Việt Nam đã phát động Chương trình Quốc gia về năng lượng bền vững, tuy nhiên, để thực hiện được, Việt Nam cần có chính sách, các văn bản pháp lý quy định chi tiết và cụ thể hơn trong lĩnh vực này.
Cùng với việc tiếp tục rà soát để hoàn thiện các quy định pháp luật về năng lượng nguyên tử ở Việt Nam, chúng ta nên tham khảo kinh nghiệm của một số quốc gia phát triển có chính sách hạn chế năng lượng nguyên tử hoặc có kế hoạch loại bỏ năng lượng nguyên tử như Áo, Ý, Đan Mạch, Na Uy, Bồ Đào Nha... tránh việc đột ngột đưa ra hướng từ bỏ năng lượng nguyên tử đã khiến không ít nước gặp các vấn đề liên quan đến khủng hoảng năng lượng khi các nguồn năng lượng khác không đủ khả năng thay thế cho nguồn cung từ điện nguyên tử, đất nước phụ thuộc nhiều hơn vào điện nhập khẩu, giá điện tăng cao, ảnh hưởng trực tiếp tới nền kinh tế.
Cần áp dụng các loại thuế đặc biệt phù hợp đối với năng lượng nguyên tử, để sử dụng nguồn thu này hỗ trợ cho việc phát triển các dạng năng lượng sạch khác. Để làm được điều đó, cần phải có nguồn vốn lớn, do năng lượng tái tạo đòi hỏi chi phí đầu tư lớn và giá thành điện thành phẩm cao. Do đó, một khoản trợ cấp nhằm đầu tư vào chi phí triển khai, trợ giá và áp dụng giá cố định dành cho năng lượng tái tạo là cần thiết nhằm nâng cao trách nhiệm của các nhà sản xuất.
Song song với việc hoàn thiện các quy định pháp luật về năng lượng nguyên tử, cần tạo sân chơi bình đẳng cho thị trường năng lượng. Các dạng năng lượng mới được đề xuất có thể bao gồm :
- Pin nhiên liệu là kỹ thuật có thể cung cấp năng lượng cho con người mà không hề phát ra khí thải CO2 hoặc những chất thải độc hại khác. Một pin nhiên liệu tiêu biểu có thể sản sinh ra điện năng trực tiếp bởi phản ứng giữa hydro và ôxy. Hydro có thể lấy từ nhiều nguồn như khí thiên nhiên, khí mêtan lấy từ chất thải sinh vật và do không bị đốt cháy nên chúng không có khí thải độc hại. Đi đầu trong lĩnh vực này là Nhật Bản, một quốc gia đã từng sản xuất thành công nhiều nguồn pin nhiên liệu khác nhau, dùng cho xe phương tiện giao thông, cho ôtô hoặc cho cả các thiết bị dân dụng khác...
- Năng lượng mặt trời: Nhật Bản, Mỹ và một số quốc gia Tây Âu là những nơi đi đầu trong việc sử dụng nguồn năng lượng mặt trời rất sớm (từ những năm 50 ở thế kỷ trước).
- Năng lượng từ đại dương: Đây là nguồn năng lượng vô cùng phong phú, nhất là quốc gia có diện tích biển lớn. Sóng và thủy triều được sử dụng để quay các turbin phát điện. Nguồn điện sản xuất ra có thể dùng trực tiếp cho các thiết bị đang vận hành trên biển như hải đăng, phao, cầu cảng, hệ thống hoa tiêu dẫn đường…
- Năng lượng gió: Năng lượng gió được coi là nguồn năng lượng xanh vô cùng dồi dào, phong phú và có ở mọi nơi. Người ta có thể sử dụng sức gió để quay các turbin phát điện. Ví dụ như ở Hà Lan hay ở Anh, Mỹ. Riêng tại Nhật mới đây người ta còn sản xuất thành công một turbin gió siêu nhỏ, sản phẩm của hãng North Powen. Turbin này có tên là NP103, sử dụng một bình phát điện dùng cho đèn xe đạp thắp sáng hoặc giải trí [4].
- Dầu thực vật phế thải dùng để chạy xe: Dầu thực vật khi thải bỏ, nếu không được tận dụng sẽ gây lãng phí lớn và gây ô nhiễm môi trường. Để khắc phục tình trạng này, tại Nhật có một công ty tên là Someya Shoten Group ở quận Sumida Tokyo đã tái chế các loại dầu này dùng làm xà phòng, phân bón và nhiên liệu diezel thực vật, chúng không có các chất thải ôxít lưu huỳnh, còn lượng khói đen thải ra chỉ bằng 1/3 so với các loại dầu truyền thống [4].
- Năng lượng từ sự lên men sinh học: Nguồn năng lượng này được tạo bởi sự lên men sinh học các đồ phế thải sinh hoạt. Theo đó, người ta sẽ phân loại và đưa chúng vào những bể chứa để cho lên men nhằm tạo ra khí metan. Khí đốt này sẽ làm cho động cơ hoạt động từ đó sản sinh ra điện năng. Sau khi quá trình phân hủy hoàn tất, phần còn lại được sử dụng để làm phân bón.
- Nguồn năng lượng địa nhiệt: Đây là nguồn năng lượng nằm sâu dưới lòng những hòn đảo, núi lửa. Nguồn năng lượng này có thể thu được bằng cách hút nước nóng từ hàng nghìn mét sâu dưới lòng đất để chạy turbin điện. Tại Nhật Bản hiện nay có tới 17 nhà máy kiểu này [4].
- Khí Mêtan hydrate: Khí Mêtan hydrate được coi là nguồn năng lượng tiềm ẩn nằm sâu dưới lòng đất, có màu trắng dạng như nước đá, là thủ phạm gây tắc đường ống dẫn khí và được người ta gọi là “nước đá có thể bốc cháy”. Metan hydrate là một chất kết tinh bao gồm phân tử nước và metan, nó ổn định ở điều kiện nhiệt độ thấp và áp suất cao, phần lớn được tìm thấy bên dưới lớp băng vĩnh cửu và những tầng địa chất sâu bên dưới lòng đại dương và là nguồn nguyên liệu thay thế cho dầu lửa và than đá rất tốt.
Ngày nay, một số quốc gia đã đặt ra kế hoạch loại bỏ dần năng lượng nguyên tử nhưng chưa thực hiện đúng theo đã định do vấp phải những khó khăn về nguồn cung năng lượng, sự phản ứng của các công ty điện lực… và buộc phải phục hồi lại một số lò để đảm bảo sản xuất điện (như ở Nhật Bản, Thụy Điển...). Việc tiếp tục phát triển năng lượng nguyên tử ở Việt Nam vẫn là rất cần thiết trước những lợi ích mà điện nguyên tử mang lại, sau khi chúng ta đã chuẩn bị đầy đủ những yếu tố cần thiết để đảm bảo sản xuất năng lượng nguyên tử an toàn và sử dụng vì mục đích hòa bình. Tuy nhiên, song song với việc hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử, cần đa dạng hóa cơ cấu nguồn năng lượng, tranh thủ nguồn lợi thu được từ năng lượng nguyên tử để có hướng đầu tư đúng đắn cho các dạng năng lượng tái tạo, năng lượng xanh khác để có sự trù bị trước cho một tương lai xa. Đây cũng nhằm mục đích phát triển nền năng lượng ở Việt Nam một cách bền vững.
TS. GVC Nguyễn Lan Nguyên
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội