Phương tiện kỹ thuật quân sự là các loại xe, khí tài, phương tiện khác được thiết kế, chế tạo và trang bị cho lực lượng vũ trang để huấn luyện, chiến đấu và phục vụ chiến đấu.
Pháp lệnh số 16/2011/UBTV/QH12 ngày 30/06/2011 của Ủy ban thường vụ Quốc hội (Pháp lệnh số 16/2011) quy định về quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ; trách nhiệm quản lý nhà nước đối với vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ nhằm bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Tại Điều 12 của Pháp lệnh số 16/2011 đã xác định việc nghiên cứu, chế tạo, sản xuất, sửa chữa vũ khí; xác định đối tượng được trang bị vũ khí quân dụng bao gồm quân đội nhân dân, công an nhân dân, qân quân tự vệ, kiểm lâm, lực lượng chuyên trách chống buôn lậu của hải quan, đơn vị hải quan cửa khẩu, an ninh hàng không.
Vũ khí quân dụng theo Pháp lệnh số 16/2011 gồm: Các loại súng ngắn, súng trường, súng liên thanh; các loại pháo, dàn phóng, bệ phóng tên lửa, súng cối, hóa chất độc và nguồn phóng xạ; các loại đạn, bom, mìn, lựu đạn, ngư lôi, vật liệu nổ quân dụng, hỏa cụ và vũ khí khác dùng cho mục đích quốc phòng. Phương tiện kỹ thuật quân sự gồm: Xe ô tô, xe kéo, khí tài ra đa, cầu phao... phương tiện khác được thiết kế, chế tạo và trang bị cho lực lượng vũ trang để huấn luyện, chiến đấu và phục vụ chiến đấu.
Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự được quy định tại Điều 95 Mục B Chương I - Các Tội xâm phạm an ninh quốc gia Bộ luật Hình sự năm 1985 và đến Bộ luật Hình sự năm 1999 tội danh này được quy định tại Điều 230 Chương XIX - Các Tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng. Hiện nay, Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự được quy định tại Điều 304 mục 3 Chương XXI - Các Tội khác xâm phạm an toàn công cộng Bộ luật Hình sự năm 2015. Trong quá trình áp dụng pháp luật, chúng tôi thấy, còn một số vướng mắc, bất cập trong áp dụng Điều 230 Bộ luật Hình sự năm 1999 và cho đến hiện nay các quy định tại Điều 304 của Bộ luật Hình sự năm 2015 cũng chưa phù hợp. Vì vậy, trong phạm vi bài viết này cùng với việc nêu ra những vướng mắc, bất cập quy định tại Điều 230 Bộ luật Hình sự năm 1999, chúng tôi cũng xin nêu ra những kiến nghị sửa đổi Điều 304 Bộ luật Hình sự năm 2015 cho phù hợp.
Điều 95 Bộ luật Hình sự năm 1985 quy định:
1. Người nào chế tạo, tàng trữ, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự, thì bị phạt tù từ một năm đến bảy năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm:
a) Có tổ chức;
b) Vật phạm pháp có số lượng lớn;
c) Gây hậu quả nghiêm trọng;
d) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình."
Trong quá trình áp dụng pháp luật để xử lý Tội chế tạo, tàng trữ, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự theo Bộ luật Hình sự năm 1985 đã gặp phải nhiều khó khăn, vướng mắc. Do đó, ngày 07/01/1995, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ đã ban hành Thông tư liên ngành số 01/TTLN hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật trong việc xử lý đối với các hành vi chế tạo, tàng trữ, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự. Đến Bộ luật Hình sự năm 1999, tội danh này đã được sửa đổi bổ sung và quy định tại Điều 230 của Chương XIX - Các Tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng, với nội dung như sau:
1. Người nào chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự, thì bị phạt tù từ một năm đến bảy năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười hai năm.
a) Có tổ chức;
b) Vật phạm pháp có số lượng lớn;
c) Vận chuyển, mua bán qua biên giới;
d) Gây hậu quả nghiêm trọng;
đ) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười năm đến mười lăm năm.
a) Vật phạm pháp có số lượng rất lớn;
b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười lăm năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân.
a) Vật phạm pháp có số lượng đặc biệt lớn;
b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ một năm đến năm năm".
Như vậy, so với Điều 95 Bộ luật Hình sự năm 1985 thì Điều 230 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã có những quy định khác, quy định bổ sung, đó là, Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự không còn được quy định tại Chương I - Các Tội xâm phạm an ninh quốc gia, mà được quy định tại Chương XIX - Các Tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng. Đã tội phạm hoá hành vi vận chuyển trái phép vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự. Do đó, trong cấu thành cơ bản của tội danh này đã bổ sung thêm hành vi vận chuyển trái phép vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự. Bên cạnh đó, hành vi vận chuyển trái phép vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự qua biên giới được quy định tại khoản 2 Điều 230 Bộ luật Hình sự năm 1999 là một tình tiết định khung tăng nặng. Đã quy định hình phạt tiền, phạt quản chế hoặc cấm cư trú là hình phạt bổ sung trong phần chế tài của Điều 230 Bộ luật Hình sự năm 1999.
Đã phân chia khoản 3 Điều 95 Bộ luật Hình sự năm 1985 thành khoản 3 và khoản 4 Điều 230 Bộ luật Hình sự năm 1999, đồng thời thu hẹp khoảng cách mức hình phạt tối đa và tối thiểu trong các khung hình phạt. Bỏ hình phạt tử hình trong phần chế tài của Điều 95 Bộ luật Hình sự năm 1985. Những quy định trên hoàn toàn phù hợp với chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn mới, góp phần đấu tranh phòng chống có hiệu quả tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự.
Tuy nhiên, quá trình áp dụng Điều 230 Bộ luật Hình sự năm 1999 đã bộc lộ một số vướng mắc trong việc xử lý đối với tội danh này mà chưa có văn bản pháp luật nào thay thế cho Thông tư liên ngành số 01/TTLN ngày 07/01/1995 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ hướng dẫn thi hành tội danh này. Do vậy, hiện nay khi tiến hành điều tra, truy tố và xét xử tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn áp dụng hướng dẫn tại Thông tư liên ngành số 01/TTLN ngày 07/01/1995, mặc dù thông tư liên ngành này quy định còn chưa đầy đủ có nhiều hạn chế. Mặt khác, Điều 230 Bộ luật Hình sự năm 1999 có nhiều quy định khác với Điều 95 Bộ luật Hình sự năm 1985, do đó, trong quá trình áp dụng pháp luật các cơ quan tiến hành tố tụng đã gặp phải nhiều vướng mắc đó là:
- Thông tư liên ngành số 01/TTLN chỉ hướng dẫn các hành vi chế tạo, tàng trữ, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự, mà chưa có hướng dẫn hành vi vận chuyển trái phép vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự.
- Thông tư liên ngành số 01/1995 đã quy định số lượng cụ thể vật phạm pháp đối với một số đối tượng phổ biến như súng, đạn, lựu đạn, thuốc nổ, kíp mìn, nụ xuỳ, dây cháy chậm, dây nổ để truy cứu trách nhiệm hình sự theo các khoản 1, khoản 2 và khoản 3 Điều 95 Bộ luật Hình sự năm 1985 nhưng cũng mới chỉ đề cập đến các đối tượng là vũ khí quân dụng, còn các đối tượng khác, đặc biệt các đối tượng là phương tiện kỹ thuật quân sự thì chưa có quy định.
- Chỉ quy định số lượng cụ thể vật phạm pháp để xác định thế nào là “vật phạm pháp có số lượng lớn” chứ chưa có quy định để xác định thế nào là “vật phạm pháp có số lượng rất lớn” và “vật phạm pháp có số lượng đặc biệt lớn”.
- Thông tư liên ngành số 01/TTLN chưa có hướng dẫn chung về việc phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 95 Bộ luật Hình sự năm năm 1985 và nay là điểm d khoản 2 Điều 230 Bộ luật Hình sự năm 1999 mà chỉ có hướng dẫn một số trường hợp cụ thể như: Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng mà gây hậu quả làm chết người, gây tổn hại sức khoẻ cho người khác, gây thiệt hại nghiêm trọng về tài sản thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm c khoản 2 Điều 95 Bộ luật Hình sự năm 1985 và nay là điểm d khoản 2 Điều 230 Bộ luật Hình sự năm 1999 về Tội tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng, với tình tiết định khung tăng nặng là gây hậu quả nghiêm trọng.
Những quy định nêu trên của Thông tư liên ngành 01/1995 chưa bao quát hết các trường hợp phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng đã xảy ra trong thực tế, đặc biệt chưa có quy định thế nào là gây hậu quả rất nghiêm trọng và gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng để xử lý tội phạm theo khoản 3 và khoản 4 Điều 230 Bộ luật Hình sự năm 1999.
Từ những vướng mắc, bất cập và với những phân tích, lập luận nêu trên, chúng tôi xin đưa ra một số kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số quy định của Điều 230 Bộ luật Hình sự năm 1999 và nay là Điều 304 Bộ luật Hình sự năm 2015 như sau:
Về Điều 304 Bộ luật Hình sự năm 2015 hiện nay quy định: Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự. Như vậy, trong điều luật này quy định sáu hành vi được coi là tội phạm gồm: Chế tạo trái phép vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự; tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự; vận chuyển trái phép vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự; sử dụng trái phép vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự; mua bán trái phép vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự; chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự.
Chế tạo trái phép vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự là làm mới hoàn toàn hoặc lắp ráp từ những bộ phận của vũ khí, phương tiện và có giá trị sử dụng theo tính năng tác dụng của chúng. Hành vi làm mới hoàn toàn súng được coi là chế tạo vũ khí quân dụng nếu đạn dùng cho súng là đạn dùng cho các vũ khí quân dụng; tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự là cất, giữ vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự mà không được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép; vận chuyển trái phép vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự được hiểu là hành vi đưa các loại vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự từ nơi này tới nơi khác mà không được cơ quan thẩm quyền cho phép; sử dụng trái phép vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự là sử dụng không có giấy phép của cơ quan Nhà nưóc có thẩm quyền; chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự bao gồm các hành vi cướp, cưỡng đoạt, cướp giật, công nhiên chiếm đoạt, tham ô, trộm cắp, lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm hoặc dùng các thủ đoạn khác chiêm đoạt tài sản các đôi tượng nói trên. Cũng được coi là chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự các hành vi của quân nhân, nhân viên, công nhân quốc phòng và những người khác được trang bị trái phép vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự để huấn luyện chiến đấu hoặc thực hiện nhiệm vụ trong thời gian công tác, khi xuất ngũ, chuyển ngành, về hưu mà không còn được phép sử dụng nhưng đã không giao nộp lại theo quy định.
Trước đây, các quy định tại Điều 95 Bộ luật Hình sự năm 1985 và Điều 230 Bộ luật Hình sự năm 1999 chỉ quy định chung chung không quy định định lượng cụ thể trong các điều luật, nay theo Điều 304 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã đưa các quy định cụ thể của Thông tư liên tịch 01/1995 và Pháp lệnh 16/2011 vào trong luật lượng hóa định lượng trong mỗi hành vi phạm tội. Tuy nhiên, do hạn chế, thiếu sót của nhiều nội dung trong Bộ luật Hình sự năm 2015 nên dù chưa có hiệu lực thi hành chính thức, nhưng Quốc hội đã có Nghị quyết sửa đổi một số nội dung của Bộ luật Hình sự năm 2015, trong đó có việc sửa đổi tội danh này. Hiện nay, khi tiếp tục xin ý kiến các cơ quan chức năng trong việc sửa đổi điều luật này cũng còn có rất nhiều quan điểm khác nhau chưa thống nhất được, đặc biệt là có hay không lượng hóa các quy định của Thông tư 01/1995 và Pháp lệnh 16/2011 vào trong điều luật như hiện nay.
Hầu hết các ý kiến của các nhà nghiên cứu chế tạo, quản lý vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự thì đều nêu quan điểm cho rằng không nên quy định định lượng cụ thể và tên các loại vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự vào trong Bộ luật Hình sự năm 2015. Còn ý kiến quan điểm của các nhà xây dựng luật và các cơ quan trực tiếp thực thi pháp luật thì cơ bản thống nhất phải lượng hóa và quy định cụ thể các loại vũ khí, số lượng, khối lượng vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự vào trong luật như hiện nay.
Qua các cuộc hội thảo và ý kiến của các chuyên gia chúng tôi thấy mỗi quan điểm đều có cơ sở khoa học. Tuy nhiên, việc lượng hóa hay không lượng hóa các quy định của thông tư vào luật thì đều có những thuận lợi nhưng cũng có những bất cập của nó, đó là:
- Về thuận lợi, nếu quy định cụ thể trong luật thì tính pháp lý sẽ cao hơn, dễ áp dụng cho những người thi hành pháp luật trong việc định tội danh, định khung hình phạt, giảm bớt việc ban hành các văn bản dưới luật như thông tư, pháp lệnh hướng dẫn thi hành.
- Về khó khăn, theo quan điểm của các nhà chuyên môn trong lĩnh vực sản xuất, chế tạo, quản lý các loại vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự thì việc lượng hóa vào trong luật số lượng, khối lượng cụ thể của các loại vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự sẽ dẫn đến một tình trạng sẽ không đầy đủ; mặt khác do việc phát triển của vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự mới liên tục phát triển. Vì vậy, khi các loại vũ khí phương tiện kỹ thuật quân sự mới này ra đời thì sẽ lại phải sửa luật mà việc sửa luật lại không phải thực hiện được ngay, do vậy sẽ không đáp ứng được tính kịp thời của pháp luật dẫn đến khó thực hiện cho các cơ quan tiến hành tố tụng, còn việc để các văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành thì việc sửa đổi sẽ dễ dàng hơn.
Từ thực tiễn trên, theo chúng tôi, do sự phát triển của tình hình, để phù hợp thông lệ xây dựng luật pháp các nước trên thế giới và thực tiễn của Việt Nam thì việc lượng hóa các định lượng cụ thể trong mỗi tội phạm cấu thành vật chất quy định trong Bộ luật Hình sự năm 2015 là hoàn toàn phù hợp và cần thiết, tránh được hướng dẫn sau khi luật ra đời lại chờ thông tư hướng dẫn của các ngành dẫn đến hiệu lực thi hành pháp luật sẽ hạn chế, làm cho các cơ quan tiến hành tố tụng sẽ khó khăn trong áp dụng. Tuy nhiên, quy định tại Điều 304 Bộ luật Hình sự năm 2015 như hiện tại chúng tôi thấy chưa đầy đủ. Cho nên, chúng tôi đề nghị bổ sung vào Điều 304 một nội dung quy định về các loại vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự khác có tính năng, tác dụng tương tự. Đây là một quy định nhằm dự liệu cho tình huống phát triển của các loại vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự mới phát triển.
Còn quan điểm không lượng hóa vào trong luật các loại vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự, theo chúng tôi là không phù hợp, vì tất cả các loại tội có cấu thành vật chất như trên đã đề cập thì nay Bộ luật Hình sự hầu như đã lượng hóa tất cả vào mỗi điều luật cụ thể. Do vậy, để thống nhất và có tính đồng bộ thì các tội về vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự cũng phải lượng hóa vào luật là hoàn toàn phù hợp và cần thiết.
Ngoài ra, định lượng quy định của Điều 304 Bộ luật Hình sự năm 2015 cũng còn chưa phù hợp như: Chưa có quy khối lượng thuốc nổ bị chiếm đoạt từ trên 30 gam đến dưới 31 gam thì xử lý thế nào; chưa quy định định số lượng cụ thể của các phương tiện kỹ thuật quân sự; dùng chữ “ly” để xác định cỡ nòng của các loại súng, pháo là không đúng. Vì vậy, cần sửa đổi, bổ sung lại các nội dung này cho đúng và phù hợp.
Từ những phân tích trên chúng tôi kiến nghị sửa và thiết kế lại tội danh ở Điều 304 Bộ luật Hình sự năm 2015, như sau:
Điều 304. Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự
1. Người nào chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép, chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự hoặc các loại vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự khác trang bị cho quốc phòng có tính năng, tác dụng tương tự thì bị phạt tù từ 01 năm đến 07 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm:
a) Có tổ chức;
b) Vật phạm pháp là vũ khí quân dụng có số lượng: từ 03 đến 10 khẩu súng ngắn, súng trường, súng tiểu liên và các loại vũ khí quân dụng khác trang bị cho quốc phòng có tính năng, tác dụng tương tự; từ 01 đến 05 khẩu súng bộ binh khác như trung liên, đại liên, súng máy cao xạ 12,7 mm đến 25 mm, súng B40, B41 và các loại vũ khí quân dụng khác trang bị cho quốc phòng có tính năng, tác dụng tương tự; từ 05 đến 15 quả mìn, lựu đạn và các loại vũ khí quân dụng khác trang bị cho quốc phòng có tính năng, tác dụng tương tự; từ 03 đến 10 quả đạn cối, đạn pháo và các loại vũ khí quân dụng khác trang bị cho quốc phòng có tính năng, tác dụng tương tự; từ 300 đến 1.000 viên đạn bộ binh cỡ 11,43 mm trở xuống và các loại vũ khí quân dụng khác trang bị cho quốc phòng có tính năng, tác dụng tương tự; từ 200 đến 600 viên đạn súng máy cao xạ cỡ 12,7 mm đến 25 mm và các loại vũ khí quân dụng khác trang bị cho quốc phòng có tính năng, tác dụng tương tự; từ 10 kilôgam đến dưới 31 kilôgam thuốc nổ các loại hoặc từ 1.000 đến 3.000 nụ xuỳ hoặc ống nổ; từ 3.000 mét đến dưới 10.000 mét dây cháy chậm, dây nổ.
c) Vật phạm pháp là phương tiện kỹ thuật quân sự có số lượng: 02 xe ô tô, 02 xe cầu phà, 02 đến 10 khí tài phòng hóa, dụng cụ quan sát và các loại phương tiện kỹ thuật quân sự khác có tính năng tương tự;
d) Vận chuyển, mua bán qua biên giới;
đ) Làm chết 01 người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
e) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%;
g) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;
h) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
i) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm:
a) Làm chết 02 người;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến 200%;
d) Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng.
đ) Vật phạm pháp là vũ khí quân dụng có số lượng: từ 11 đến 30 khẩu súng ngắn, súng trường, súng tiểu liên và các loại vũ khí khác trang bị cho quốc phòng có tính năng, tác dụng tương tự; từ 6 đến 20 khẩu súng bộ binh khác như trung liên, đại liên, súng máy cao xạ 12,7 mm đến 25mm, súng B40, B41 và các loại vũ khí quân dụng khác trang bị cho quốc phòng có tính năng, tác dụng tương tự; từ 16 đến 45 quả mìn, lựu đạn; từ 11 đến 30 quả đạn cối, đạn pháo và các loại vũ khí quân dụng khác trang bị cho quốc phòng có tính năng, tác dụng tương tự; từ 1.001 đến 3000 viên đạn bộ binh cỡ 11,43 mm trở xuống và các loại vũ khí quân dụng khác trang bị cho quốc phòng có tính năng, tác dụng tương tự; từ 601 đến 2.000 viên đạn súng máy cao xạ cỡ 12,7mm đến 25 mm và các loại vũ khí quân dụng khác trang bị cho quốc phòng có tính năng, tác dụng tương tự; từ 31 kilôgam đến dưới 101 kilôgam thuốc nổ các loại; từ 3.001 đến 10.000 nụ xuỳ hoặc ống nổ hoặc từ 10.000 mét đến dưới 30.000 mét dây cháy chậm, dây nổ.
e) Vật phạm pháp là phương tiện kỹ thuật quân sự có số lượng: 04 xe ô tô, 04 xe cầu phà, 11 đến 20 khí tài phòng hóa, dụng cụ quan sát, ra đa và các loại phương tiện kỹ thuật quân sự khác có tính năng tương tự;
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 15 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
a) Vật phạm pháp là vũ khí quân dụng có số lượng: từ 31 khẩu súng ngắn, súng trường, súng tiểu liên trở lên; từ 21 khẩu súng bộ binh khác như trung liên, đại liên, súng máy cao xạ 12,7 mm đến 25 mm, súng B40, B41 trở lên và các loại vũ khí quân dụng khác trang bị cho quốc phòng có tính năng, tác dụng tương tự; từ 46 quả mìn, lựu đạn trở lên và các loại vũ khí khác trang bị cho quốc phòng có tính năng, tác dụng tương tự; từ 31 quả đạn cối, đạn pháo trở lên và các loại vũ khí quân dụng khác trang bị cho quốc phòng có tính năng, tác dụng tương tự; từ 3001 viên đạn trở lên (đạn bộ binh cỡ 11,43 mm trở xuống); từ 2.001 viên đạn súng máy cao xạ trở lên (đạn cỡ 12,7 mm đến 25 mm); từ 101 kilôgam trở lên thuốc nổ các loại; từ 10.001 nụ xuỳ hoặc ống nổ trở lên hoặc từ 30.000 mét dây cháy chậm, dây nổ trở lên.
b) Vật phạm pháp là phương tiện kỹ thuật quân sự có số lượng: 06 xe ô tô, 06 xe cầu phà, trên 20 khí tài phòng hóa, dụng cụ quan sát, ra đa và các loại phương tiện kỹ thuật quân sự khác có tính năng tương tự;
c) Làm chết 03 người trở lên;
d) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên;
đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 201% trở lên;
e) Gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm.
Tòa án quân sự Trung ương