Thứ sáu 20/06/2025 08:52
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Tồn tại, vướng mắc trong Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước và đề xuất, kiến nghị sửa đổi, bổ sung

Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 18/6/2009 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2010. Luật quy định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đối với cá nhân, tổ chức bị thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra trong hoạt động quản lý hành chính, tố tụng, thi hành án.

Không thể phủ nhận các quy định ngày càng hoàn thiện so với các văn bản pháp luật quy định trước, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước ra đời góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật của Nhà nước ta trong thời kỳ mới, thể hiện rõ trách nhiệm của Nhà nước đối với cá nhân, tổ chức bị thiệt hại; các quy định tương đối rõ ràng, cụ thể và đầy đủ, tạo sự ổn định xã hội, thúc đẩy phát triển của Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN. Tuy nhiên, sau gần 5 năm đi vào cuộc sống, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đã bộc lộ những tồn tại, vướng mắc cần phải xem xét sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn. Dưới đây là những vấn đề hết sức cơ bản được tác giả nêu và phân tích một cách ngắn gọn nhất.

1. Một số tồn tại, vướng mắc cơ bản trong Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước

Một là, về phạm vi điều chỉnh

Tại Điều 1 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước quy định về phạm vi điều chỉnh trong đó ghi rõ đối tượng được bồi thường là cá nhân, tổ chức bị thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra trong hoạt động quản lý hành chính, tố tụng, thi hành án. Như vậy, có thể thấy việc quy định này của luật được ghi rõ đối tượng là cá nhân, tổ chức bị thiệt hại. Tuy nhiên lại không quy định rõ đối với cá nhân, tổ chức nước ngoài thì được điều chỉnh ra sao và việc bồi thường thực hiện như thế nào. Điều này đòi hỏi luật cần có sự quy định cụ thể, rõ ràng hơn. Hơn nữa, trên thực tế cuộc sống còn có nhiều trường hợp khác mà Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước chưa đề cập tới trong đối tượng là cá nhân, tổ chức bị thiệt hại;

Về Phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước bao gồm: Lĩnh vực quản lý hành chính, tố tụng (tố tụng hình sự, dân sự, hành chính) và thi hành án (thi hành án hình sự, dân sự). Mặc dù, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đã quy định rõ phạm vi thuộc trách nhiệm bồi thường của Nhà nước nhưng thực tiễn còn nhiều trường hợp khác đặt ra không được bồi thường mặc dù cũng bị thiệt hại như: Việc giữa cơ quan Nhà nước ký hợp đồng với cá nhân, tổ chức mà gây thiệt hại; những trường hợp các công trình xây dựng hoặc biến cố khác của cơ quan Nhà nước mà gây thiệt hại cho cá nhân, tổ chức (các công trình đang xây dựng do sập bê tông vào người đi đường, chết đuối do rơi vào hố đang thi công ...). Có thể thấy đây là một vài trường hợp trong rất nhiều trường hợp ngoài phạm vi quy định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước được ghi nhận trong Luật. Luật pháp luôn phản ánh và điều chỉnh các quan hệ xã hội và là công cụ quản lý của Nhà nước, do vậy sẽ lạc hậu hơn so với sự phát triển của xã hội, điều này đòi hỏi cần chỉnh sửa để ngày một hoàn thiện hơn trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội phục vụ sự quản lý phát triển của Nhà nước.

Hai là, về căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường

Đây là vấn đề cực kỳ quan trọng và có thể coi là yếu tố mấu chốt trong việc yêu cầu bồi thường của người bị thiệt hại. Song để có được căn cứ yêu cầu bồi thường là cả vấn đề hết sức khó khăn và phức tạp đối với người bị thiệt hại.

Điều 6 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước quy định việc xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, thi hành án phải có các căn cứ sau:

+ Có văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định hành vi của người thi hành công vụ là trái pháp luật và thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường quy định tại các Điều 13, 28, 38 và 39 của Luật này;

+ Có thiệt hại thực tế do hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra đối với người bị thiệt hại.

Việc xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố tụng hình sự phải có các căn cứ sau:

+ Có bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người bị thiệt hại thuộc các trường hợp được bồi thường quy định tại Điều 26 của Luật này;

+ Có thiệt hại thực tế do người tiến hành tố tụng hình sự gây ra đối với người bị thiệt hại.

Như vậy, căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước bắt buộc phải có hai điều kiện là có văn bản của cơ quan Nhà nước trong đó xác định rõ hành vi của người thi hành công vụ là trái pháp luật hoặc bản án, quyết định trong tố tụng hình sự xác định người bị thiệt hại được bồi thường và điều kiện thứ hai là phải có thiệt hại thực tế xẩy ra. Đây là một quy định rất khó khăn trong thực tế thi hành Luật, đặc biệt đối với người bị thiệt hại, bởi trong mối quan hệ bồi thường này là quan hệ bất bình đẳng giữa một bên là Nhà nước và một bên là cá nhân, tổ chức bị thiệt hại. Để có văn bản xác định hành vi sai trái của người thi hành công vụ là cả một vấn đề, thậm chí các cơ quan còn né tránh không ra văn bản hoặc có ban hành văn bản thì mang tính chất nội dung chung chung mà không ghi nhận sự sai trái đó. Điều 9 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước quy định rằng người bị thiệt hại có nghĩa vụ chứng minh về thiệt hại thực tế đã xảy ra. Việc chứng minh có thiệt hại thực tế xảy ra cũng là một vấn đề khó khăn, bởi người bị thiệt hại là cá nhân, tổ chức nhưng không có công cụ gì trong tay mà chứng minh là có thiệt hại thực tế xảy ra. Để thuận lợi cho yêu cầu của người bị thiệt hại, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước cần nghiên cứu và hoàn thiện quy định này, tạo điều kiện thuận lợi trong thủ tục yêu cầu bồi thường.

Ba là, về thủ tục giải quyết bồi thường

Điều 19, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước mặc dù đã có những quy định cụ thể, giản tiện trong thủ tục giải quyết bồi thường nhằm đạt hiệu quả và nhanh gọn như cử người đại diện có thẩm quyền của cơ quan có trách nhiệm bồi thường trực tiếp thương lượng, giải quyết. Việc giải quyết bồi thường tại cơ quan có trách nhiệm bồi thường là thủ tục bắt buộc. Sau khi thụ lý đơn và xác minh yêu cầu bồi thường của người bị thiệt hại thì cơ quan có trách nhiệm bồi thường tổ chức thương lượng và việc thương lượng phải được lập thành biên bản, kết quả thương lượng là cơ sở để quyết định việc bồi thường. Ngoài mặt tích cực ra, thì yêu cầu bắt buộc này tồn tại một số hạn chế như: Kéo dài thời gian giải quyết; người bị thiệt hại nhiều khi đã mất lòng tin đối với cơ quan có trách nhiệm bồi thường, nhưng lại không có sự lựa chọn nào khác mà phải chờ thủ tục thương lượng xong mới được khởi kiện ra Tòa án; hạn chế quyền yêu cầu thuận lợi của người bị thiệt hại trong việc giải quyết yêu cầu bồi thường.

Thực tế trong hoạt động tố tụng, sau khi có Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, thì dường như hoạt động này có phần được chặt chẽ hơn trong khâu thủ tục giải quyết, song cũng hạn chế nhiều đối với những người tiến hành tố tụng khi thực thi và áp dụng pháp luật. Trong tố tụng hình sự thì người được miễn trách nhiệm hình sự không được bồi thường thiệt hại (Điều 27 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước) nhưng việc miễn trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 25 Bộ luật Hình sự cũng có nhiều nội dung chưa đồng thuận và để tránh phải bồi thường, thì đây có thể là kẽ hở để các cơ quan tiến hành tố tụng sử dụng.

Tương tự trong tố tụng dân sự và hành chính nếu người tiến hành tố tụng áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có hành vi trái pháp luật gây ra, thì Nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Điều này đồng nghĩa với việc nhiều vụ án hành chính, dân sự không được áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời sẽ gây hậu quả khó lường và phức tạp khi giải quyết vụ án về sau bởi người tiến hành tố tụng muốn sự an toàn mà không sử dụng kịp thời biện pháp ngăn chặn.

2. Một số đề xuất, kiến nghị sửa đổi, bổ sung Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước

Thứ nhất, về phạm vi, đối tượng được bồi thường

Cần rà soát, nghiên cứu và bổ sung đối tượng, phạm vi được bồi thường. Như đặt vấn đề tại mục 1, thì cứ những cá nhân, tổ chức bị thiệt hại trong phạm vi quy định của Luật mới được bồi thường, vậy đối với tổ chức, cá nhân nước ngoài thì sao? Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, cần có quy định rõ hơn, đồng thời hoàn thiện trong việc hợp tác quốc tế đối với hoạt động trách nhiệm bồi thường của Nhà nước. Ngoài phạm vi trong ba lĩnh vực là quản lý hành chính, tố tụng và thi hành án thì cần mở rộng hơn, đặc biệt là những trường hợp thực tiễn xảy ra nhiều hoặc trường hợp cơ quan Nhà nước ký hợp đồng mà gây thiệt hại cho tổ chức, cá nhân hoặc ban hành văn bản pháp luật sai trái gây thiệt hại…

Thứ hai, căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường

Cũng như nêu ở Mục 1, căn cứ để xác định trách nhiệm bồi thường cần phải có đủ hai điều kiện là văn bản của cơ quan có thẩm quyền xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ và chứng minh có thiệt hại thực tế xảy ra. Việc yêu cầu ra văn bản của cơ quan Nhà nước đã khó, trong đó có nội dung thừa nhận sai trái lại càng khó khăn hơn, bên cạnh đó rất nhiều cơ quan trốn tránh trách nhiệm không ra văn bản hoặc loanh quanh, văn bản không đúng quy định nên không thể yêu cầu bồi thường. Việc chứng minh thiệt hại thực tế xảy ra cũng là một vấn đề rất khó, người yêu cầu bồi thường thiệt hại không có công cụ, phương tiện thậm chí không có điều kiện thì việc chứng minh là cự ký khó, thậm chí là không thể như vấn đề ô nhiễm môi trường là một ví dụ. Vấn đề này có thể khắc phục, sửa đổi, bổ sung bằng cách có thể dùng các văn bản hoặc tài liệu, chứng cứ khác để so sánh, chứng minh việc sai trái của người thi hành công vụ trong cơ quan có thẩm quyền gây thiệt hại mà không nhất thiết phải chờ văn bản nhận sai của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đó.

Bên cạnh đó trên thực tế trong lĩnh vực tố tụng hình sự, hành chính và dân sự như phần đầu đã đề cập, các cơ quan tiến hành tố tụng có thể chọn một phương án rất an toàn để tránh việc bồi thường, lợi dụng sự chưa hoàn thiện của hệ thống luật pháp như miễn trách nhiệm hình sự hoặc không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời… Lĩnh vực này cần quy định một cách cụ thể, rõ ràng, hạn chế việc né tránh hoăc áp dụng pháp luật một cách không phù hợp sẽ ảnh hưởng tới quyền lợi của người dân.

Thứ ba, thủ tục giải quyết trách nhiệm bồi thường

Từ đối tượng, phạm vi đến căn cứ xác định bồi thường là cả một vấn đề, thậm chí người yêu cầu bồi thường mất rất nhiều thời gian, công sức để tiếp cận với đầy đủ thủ tục để yêu cầu bồi thường nhưng lại không được chọn một phương pháp tối ưu nhanh, gọn, đỡ tốn kém để được giải quyết mà bắt buộc phải thương lượng với cơ quan có trách nhiệm bồi thường. Vốn đã là không bình đẳng trong quan hệ yêu cầu bồi thường lại có nhiều điểm bất lợi song cá nhân, tổ chức vẫn phải ngồi vào bàn thương lượng với cơ quan có trách nhiệm bồi thường. Điều này có thể nghiên cứu sửa đổi để cá nhân, tổ chức yêu cầu bồi thường có thể chọn phương án tốt hơn để yêu cầu bồi thường.

Ngoài ra vấn đề về trách nhiệm hoàn trả cũng cần có sự nghiên cứu và sửa đổi, bổ sung phù hợp, rõ hơn để người thi hành công vụ đủ tự tin, yên tâm khi làm việc đồng thời có trách nhiệm cao hơn trong thực thi công vụ./.

ThS. Luật sư Lê Đăng Tùng

VP luật sư Trường Giang, Đoàn luật sư TP. Hà Nội

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Đây là chia sẻ của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh khi trao đổi với chúng tôi về 28 nghị định của Chính phủ về phân quyền, phân cấp; phân định thẩm quyền giữa Chính phủ và chính quyền địa phương 02 cấp.
Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 11/6/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 120/2025/NĐ-CP quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 120/2025/NĐ-CP). Nghị định bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động bình thường, liên tục, thông suốt của các cơ quan; không để gián đoạn công việc, không để chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực, địa bàn; không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của xã hội, người dân, doanh nghiệp khi thực hiện chính quyền địa phương hai cấp từ ngày 01/7/2025 trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Nhằm thể chế hoá đầy đủ quan điểm chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phân quyền, phân cấp; bảo đảm việc triển khai nhiệm vụ được thông suốt, hiệu quả, kịp thời, cải cách tối đa thủ tục hành chính, giảm chi phí, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, Chính phủ ban hành Nghị định số 121/2025/NĐ-CP quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 121/2025/NĐ-CP).
Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm