Thứ bảy 21/06/2025 13:58
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Trao đổi về vấn đề xử lý vật chứng, tài sản trong thi hành án dân sự

Hoạt động nghiệp vụ thi hành án dân sự là lĩnh vực tương đối rộng, liên quan đến hầu hết các ngành luật như: Luật dân sự, kinh tế, lao động, hành chính, hôn nhân và gia đình, đất đai và nhiều ngành luật khác.

Hoạt động nghiệp vụ thi hành án dân sự là lĩnh vực tương đối rộng, liên quan đến hầu hết các ngành luật như: Luật dân sự, kinh tế, lao động, hành chính, hôn nhân và gia đình, đất đai và nhiều ngành luật khác. Để thực hiện tốt công tác thi hành án dân sự, đòi hỏi chấp hành viên, công chức thi hành án dân sự, ngoài việc nắm chắc các quy định của Luật Thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn, còn phải có nhận thức sâu sắc đối với các ngành, lĩnh vực có liên quan; có kiến thức xã hội sâu rộng, kỹ năng và uy tín trong việc hòa giải, thuyết phục người được thi hành án, người phải thi hành án và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành án, có khả năng giao tiếp, ứng xử nhanh đối với các tình tiết phát sinh trong quá trình thực thi công vụ. Khó khăn, vướng mắc trong hoạt động thi hành án dân sự vẫn còn nhiều, một số vấn đề các chấp hành viên, cơ quan thi hành án dân sự địa phương có thể tìm cách hạn chế hoặc khắc phục được, tuy nhiên những vướng mắc từ các quy định của pháp luật, muốn khắc phục thì phải đòi hỏi thời gian khá dài vì những vấn đề bất cập từ cơ chế, chính sách, không thể thực hiện ngắn hạn, mặt khác thẩm quyền thuộc về cơ quan ban hành, ngoài khả năng của chấp hành viên, cơ quan thi hành án dân sự địa phương; có những vấn đề pháp luật còn quy định chung chung, chưa cụ thể, thậm chí có vấn đề pháp luật chưa quy định, do vậy ảnh hưởng trực tiếp đến tiến trình giải quyết án đối với các cơ quan thi hành án dân sự.

Dưới đây là một số vấn đề còn tranh cãi trong thực tiễn thi hành án dân sự.

1. Vấn đề xử lý vật chứng

Đối với việc xử lý vật chứng của vụ án sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, cơ quan thi hành án tiến hành xử lý hầu như không có vướng mắc, khó khăn. Song đối với việc xử lý vật chứng của vụ án khi mà bị can chết ở giai đoạn truy tố thì Quyết định đình chỉ vụ án của cơ quan Viện kiểm sát vẫn còn có những ý kiến khác nhau.

Quan điểm thứ nhất cho rằng:

Theo quy định tại khoản 1 Điều 76 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về xử lý vật chứng thì: “Việc xử lý vật chứng do cơ quan điều tra quyết định, nếu vụ án được đình chỉ ở giai đoạn điều tra; do Viện kiểm sát quyết định, nếu vụ án được đình chỉ ở giai đoạn truy tố; do Toà án hoặc Hội đồng xét xử quyết định ở giai đoạn xét xử”.

Theo quy định tại Điều 1 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, cơ quan thi hành án dân sự chỉ “thi hành bản án, quyết định dân sự, hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài sản, án phí và quyết định dân sự trong bản án, quyết định hình sự, phần tài sản trong bản án, quyết định hành chính của Toà án, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản của bên phải thi hành án của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và quyết định của Trọng tài thương mại”.

Như vậy, nếu bị can chết trong giai đoạn truy tố, việc xử lý vật chứng thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát. Chức năng của cơ quan thi hành án dân sự là thực thi những phán quyết về mặt dân sự của các cơ quan tài phán. Việc chuyển giao quyết định xử lý vật chứng của Viện kiểm sát cho cơ quan thi hành án dân sự để xử lý là không đúng, cơ quan thi hành án dân sự không có căn cứ để ban hành Quyết định thi hành án đối với trường hợp này.

Quan điểm thứ 2 lại cho rằng:

Theo quy định của Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân ban hành ngày 24/11/2014 thì chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân được quy định tại Điều 2, cụ thể như sau: “1. Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; 2. Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”.

Viện kiểm sát không có chức năng, nhiệm vụ xử lý vật chứng của vụ án, chức năng này thuộc về cơ quan thi hành án dân sự, không phải ngẫu nhiên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vật chứng đã được chuyển sang cơ quan thi hành án dân sự để trông giữ, bảo quản. Mặt khác tại Điều 36 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 quy định:

1. Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự chủ động ra quyết định thi hành đối với phần bản án, quyết định sau đây:

a) Hình phạt tiền, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, án phí;

b) Trả lại tiền, tài sản cho đương sự;

c) Tịch thu sung quỹ nhà nước, tịch thu tiêu huỷ vật chứng, tài sản;

d) Thu hồi quyền sử dụng đất và tài sản khác thuộc diện sung quỹ nhà nước;

đ) Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.

Nếu theo quan điểm 2, phải chăng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 và Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 đang có sự xung đột pháp luật. Theo chức năng, nhiệm vụ của cơ quan thi hành án dân sự thì ngoài việc thực thi phần dân sự trong các bản án, quyết định của cơ quan tài phán, còn phải thực thi các quyết định của cơ quan Viện kiểm sát, thậm chí của cơ quan Công an?

2.Vấn đề xác định vật cùng loại, hay vật đặc định

Xin nêu một trường hợp: Bản án dân sự xét xử việc tranh chấp tài sản giữa A và B. Quyết định của Bản án tuyên A phải trả cho B “một con bò 24 tháng tuổi, màu đen, trên đầu có hình trái tim màu trắng, trị giá 10 triệu đồng”. Bản án có hiệu lực thi hành, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, cơ quan thi hành án dân sự thụ lý và ra quyết định thi hành án. Trong quá trình thi hành án, chấp hành viên tiến hành xác minh tài sản để tổ chức giao tài sản cho người được thi hành án, tài sản để thi hành án hiện không còn, theo người phải thi hành án cung cấp thông tin thì con bò phải giao cho người được thi hành án đã chết.

Quan điểm của chấp hành viên trực tiếp giải quyết việc thi hành án xác định con bò phải giao cho người được thi hành án là vật đặc định. Theo quy định tại Điều 179 Bộ Luật Dân sự năm 2005 thì: “Vật đặc định là vật phân biệt được với các vật khác bằng những đặc điểm riêng về ký hiệu, hình dáng, màu sắc, chất liệu, đặc tính, vị trí. Khi thực hiện nghĩa vụ chuyển giao vật đặc định thì phải giao đúng vật đó”.

Áp dụng điểm d, khoản 1 Điều 51 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự trả đơn yêu cầu thi hành án với lý do vật đặc định không còn. Người được thi hành án không đồng ý với quyết định trả đơn của thủ trưởng cơ quan thi hành án và cho rằng, con bò trả cho người được thi hành án là vật cùng loại vì: “Vật cùng loại là những vật có cùng hình dáng, tính chất, tính năng sử dụng và xác định được bằng những đơn vị đo lường; Vật cùng loại có cùng chất lượng có thể thay thế cho nhau”.

Người phải thi hành án lập luận: Con bò là vật cùng loại vì có cùng hình dáng với những con bò khác, có thể thay thế được. Trong bản án cũng xác định con bò là 12 tháng tuổi, xác định về giá trị là 10 triệu đồng (đây chính là đơn vị đo lường). Do vậy, nếu con bò chết hoặc mất khi người phải thi hành án chưa tiến hành giao trả người được thi hành án, thì thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự trả đơn yêu cầu thi hành án là không có căn cứ pháp luật. Trong trường hợp này cơ quan thi hành án dân sự phải tiếp tục tổ chức thi hành án.

3. Vấn đề xử lý tài sản giao cho người được thi hành án do người thứ 3 đang quản lý, sử dụng

Bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện X, xét xử việc yêu cầu ly hôn giữa anh A và chị B, trong đó có yêu cầu phân chia tài sản chung vợ, chồng.

Trước thời điểm kết hôn với anh A, chị B đã có ngôi nhà 2 tầng, xây dựng trên diện tích 50 m2 , tại thành phố Hà Nội. Năm 2000, anh A kết hôn với chị B; năm 2001, A và B cùng mua một ngôi nhà 3 tầng trên diện tích đất 100 m 2, tại phường N, thành phố Đ, trị giá 1.500.000.000 đồng, đứng tên chị B và một mảnh đất 100 m2 tại phường T, thành phố Đ trị giá 600 triệu đồng, đứng tên chủ sở hữu 2 vợ chồng. Theo chị B cung cấp thông tin trước Tòa, số tiền mua ngôi nhà tại phường N là do chị đã bán ngôi nhà 2 tầng, xây dựng trên diện tích 50 m2 tại thành phố Hà Nội, tài sản do chị tạo lập, có trước khi kết hôn với anh A. Tòa án đã tiến hành xác minh số tiền chị B bán nhà này (thông qua người mua nhà tại thành phố Hà Nội, số tiền chuyển vào tài khoản của người đã bán nhà cho chị B ở phường N là 1.200.000.000 đồng, khớp với thông tin chị B cung cấp trước Tòa, số tiền 300.000.000 đồng còn thiếu, chị B đã vay để trả đủ cho người bán nhà), nhà và đất hiện vẫn đứng tên chủ sở hữu là chị B. Anh A cho rằng tất cả số tài sản trên là tài sản chung vợ, chồng, ngoài ra, còn một số khoản nợ do 2 vợ chồng vay để kinh doanh, tổng giá trị 600 triệu đồng.

Tòa án cấp sơ thẩm quyết định: Nhà, đất tại phường N, thành phố Đ là tài sản riêng của chị B, giao chị B quản lý sử dụng; 100 m2 đất tại phường T, thành phố Đ trị giá 600 triệu đồng là tài sản chung vợ chồng, tài sản do công sức của 2 vợ chồng cùng tạo lập, mỗi người được hưởng ½ giá trị. Tuy nhiên A và B còn nợ 600 triệu mỗi người có trách nhiệm trả nợ 300 triệu đồng, hiện tại A không có khả năng trả nợ, các khoản nợ đều đến hạn trả, do vậy, chị B đề nghị Tòa rằng chị B có trách nhiệm trả hết các khoản nợ cả 2 người đã vay và được quyền quản lý 100 m2 tại phường T. Yêu cầu của chị B được Tòa chấp thuận và quyết định giao chị B quản lý sử dụng 100 m2 đất tại phường T, chị B có trách nhiệm trả nợ 600 triệu đồng do A và B đã vay kinh doanh trong thời kỳ hôn nhân.

Anh A không đồng ý với quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm, kháng cáo lên Tòa án tỉnh đề nghị xét xử theo thủ tục phúc thẩm. Trong thời gian đó, chị B đã mang Bản án của Tòa án cấp sơ thẩm đến đề nghị công chứng viên, công chứng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng mảnh đất 100 m2 tại phường T cho ông C, cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng mảnh đất này mang tên ông C.

Bản án phúc thẩm của Tòa án tỉnh cho rằng: Ngôi nhà 3 tầng trên diện tích 100 m2 tại phường N, tỉnh Đ được xác lập quyền sở hữu trong thời kỳ hôn nhân giữa anh A, chị B năm 2001, mặc dù mang tên chị B nhưng là tài sản chung vợ, chồng; mảnh đất 100 m2 tại phường T, thành phố Đ, 2 vợ chồng A và B mua trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung. Do vậy, Tòa quyết định khối tài sản bao gồm: Ngôi nhà 3 tầng xây dựng trên diện tích đất 100 m2 tại phường N và 100 m2 tại phường T, tỉnh Đ là tài sản chung vợ, chồng, mỗi người được hưởng ½ giá trị tài sản; các khoản nợ tổng cộng là 600 triệu, mỗi người có trách nhiệm phải trả 300 triệu đồng. Tuy nhiên khi phân chia tài sản ngôi nhà 3 tầng xây dựng trên diện tích 100 m2 tại phường N, Tòa cũng tính đến công sức đóng góp của người vợ, song chưa tính toán chi tiết đến mức đóng góp cụ thể của từng người là bao nhiêu, để tính toán mức hưởng theo kỷ phần. Mặt khác, mức được hưởng của từng người là khác nhau, Tòa phải chia khối tài sản cho từng người, sau đó trừ đi số nợ từng người phải chịu, nhưng ở đây, Tòa quyết định trừ số nợ của 2 vợ chồng sau đó mới đem chia số còn lại cho từng người (theo lập luận của người phải thi hành án . Theo phán quyết của Bản án phúc thẩm, chị B được giao quản lý sử dụng ngôi nhà 3 tầng, xây dựng trên diện tích 100 m2 đất tại phường N và phải trả toàn bộ số nợ 600 triệu đồng, anh A được toàn quyền quản lý, sử dụng mảnh đất 100 m2, tại phường N, mặc dù mảnh đất đã được chuyển nhượng cho ông C trước thời điểm xét xử bản án phúc thẩm.

Chị B không đồng ý với phán quyết của Tòa án, tiếp tục khiếu kiện, anh A cũng khởi kiện ra Tòa án hành chính yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông C, mà Ủy ban nhân dân cấp huyện đã cấp. Tòa hành chính đã hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông C, song hợp đồng công chứng chuyển quyền sử dụng đất giữa chị B và ông C vẫn chưa được yêu cầu tuyên hủy.

Trong quá trình tổ chức thi hành án, chấp hành viên xác định 100 m2 đất giao cho anh A theo quyết định của bản án phúc thẩm, đã bị chị B bán cho ông C trước thời điểm xét xử phúc thẩm và đã được ông C xây dựng ngôi nhà 2 tầng trên diện tích 100 m2 đó, hiện giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông C đã bị Tòa hành chính cấp sơ thẩm tuyên hủy, nhưng hợp đồng công chứng vẫn đang có hiệu lực, do vậy, chấp hành viên không thể tổ chức cưỡng chế, tháo dỡ giao trả mặt bằng đất cho anh A. Các đương sự và người có quyền lợi liên quan liên tục khiếu kiện quyết định của Bản án và việc tổ chức thi hành án của chấp hành viên, cơ quan thi hành án dân sự.

Vấn đề đặt ra trong quá trình xét xử có vi phạm tố tụng không, hay đây là tình tiết mới phát sinh; các cơ quan có thẩm quyền, các đương sự có quyền yêu cầu Tòa án cấp trên xem xét lại bản án theo trình tự thủ tục tái thẩm hay giám đốc thẩm; việc xử lý tài sản để giao cho người được thi hành án do người thứ 3 đang nắm giữ, trong trường hợp này như thế nào?

Để nâng cao hơn nữa hiệu lực, hiệu quả của công tác thi hành án dân sự, giảm bớt những khó khăn, áp lực đối với các chấp hành viên, cơ quan thi hành án dân sự, rất mong được sự chia sẻ cùng bạn đọc.

Trần Ngọc Bản

Cục Thi hành án dân sự tỉnh Điện Biên

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Đây là chia sẻ của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh khi trao đổi với chúng tôi về 28 nghị định của Chính phủ về phân quyền, phân cấp; phân định thẩm quyền giữa Chính phủ và chính quyền địa phương 02 cấp.
Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 11/6/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 120/2025/NĐ-CP quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 120/2025/NĐ-CP). Nghị định bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động bình thường, liên tục, thông suốt của các cơ quan; không để gián đoạn công việc, không để chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực, địa bàn; không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của xã hội, người dân, doanh nghiệp khi thực hiện chính quyền địa phương hai cấp từ ngày 01/7/2025 trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Nhằm thể chế hoá đầy đủ quan điểm chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phân quyền, phân cấp; bảo đảm việc triển khai nhiệm vụ được thông suốt, hiệu quả, kịp thời, cải cách tối đa thủ tục hành chính, giảm chi phí, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, Chính phủ ban hành Nghị định số 121/2025/NĐ-CP quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 121/2025/NĐ-CP).
Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm