Toàn cảnh Hội thảo.
Hội thảo được tổ chức nhằm xác định, làm rõ các vấn đề liên quan đến xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật để tạo động lực, thúc đẩy đổi mới sáng tạo; gợi ý một số khuyến nghị chính sách khi đổi mới tư duy tạo động lực, thúc đẩy đổi mới sáng tạo; tạo diễn đàn để thu hút, quy tụ các nhà khoa học, nhà hoạt động thực tiễn cùng nhau nghiên cứu, trao đổi, chia sẻ quan điểm về tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo.
Gần 200 đại biểu tham dự Hội thảo, gồm hơn 50 đại biểu dự trực tiếp và hơn 140 đại biểu dự online tại hơn 100 điểm cầu trên toàn quốc, gồm có: GS.TS. Võ Khánh Vinh, nguyên Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam; PGS.TS. Trần Văn Độ, nguyên Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, nguyên Chánh án Tòa án quân sự Trung ương; TS. Đỗ Ngọc Thịnh, Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam; GS.TS. Lê Hồng Hạnh, Chủ tịch Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam; đồng chí Phan Đức Hiếu, Ủy viên thường trực Ủy ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội, đại biểu Quốc hội khóa XV; GS.TS. Vũ Công Giao – Trường Đại học Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội; PGS.TS. Vũ Thị Lan Anh – Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Luật Hà Nội; PGS.TS. Dương Đăng Huệ, nguyên Vụ trưởng Vụ Pháp luật dân sự - kinh tế; TS. Nguyễn Thị Kim Thoa, nguyên Vụ trưởng Vụ Pháp luật hình sự - hành chính; đại diện lãnh đạo các đơn vị thuộc Văn phòng Quốc hội, Văn phòng Chính phủ, Bộ Tư pháp, Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và hội đồng nhân dân, các tổ chức pháp chế của Bộ, ngành, Hội đồng nhân dân, Sở Tư pháp các địa phương; thành viên Hội đồng cố vấn, Hội đồng tư vấn biên tập của Tạp chí Dân chủ và Pháp luật; chuyên gia, nhà khoa học, giảng viên của một số trường đại học, các tổ chức hành nghề luật…
TS. Trương Thế Côn, Tổng Biên tập Tạp chí Dân chủ và Pháp luật phát biểu tại Hội thảo.
Ban Tổ chức đã nhận được hơn 20 bài viết tham luận. Tại Hội thảo đã ghi nhận 15 ý kiến phát biểu trực tiếp, 01 ý kiến phát biểu online và nhiều ý kiến bằng văn bản, trong đó tập trung vào các vấn đề sau:
1. Về khái niệm, phạm vi đổi mới sáng tạo, tư duy xây dựng pháp luật
Cần phải hiểu rõ, định nghĩa chính xác, tiếp cận toàn diện, xác định mọi khía cạnh về các khái niệm như “thể chế”, “hệ sinh thái” và “đổi mới sáng tạo” để có cơ sở vững chắc cho việc đổi mới tư duy về xây dựng pháp luật và thúc đẩy đổi mới sáng tạo.
Đổi mới sáng tạo là khái niệm rộng, có thể gắn với nhiều lĩnh vực, bối cảnh. Theo nghĩa khái quát, đây là quá trình tạo ra hoặc cải tiến những mô hình tổ chức, hoạt động hay phương pháp làm việc mới để nâng cao hiệu lực, hiệu quả, qua đó cung cấp các sản phẩm, dịch vụ với số lượng nhiều và giá trị cao hơn, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội.
Để có thể xem là đổi mới sáng tạo, cần phải đáp ứng những yêu cầu cơ bản như: tính mới mẻ, thể hiện qua sự khác biệt của ý tưởng hoặc giải pháp so với cách làm truyền thống; tính ứng dụng, thể hiện qua khả năng thực hiện triển khai trong thực tế và tạo ra giá trị của ý tưởng hoặc giải pháp; tính hiệu quả, thể hiện qua thực tế là ý tưởng hoặc giải pháp góp phần nâng cao năng suất, tiết kiệm chi phí hoặc giải quyết vấn đề một cách tối ưu hơn.
Tư duy xây dựng pháp luật là hệ thống phương thức, cách thức, cách làm,… trong xây dựng pháp luật, để đạt được mục tiêu đặt ra.
Tư duy xây dựng pháp luật là nhận thức về bản chất và phát hiện ra tính quy luật của hoạt động xây dựng pháp luật. Vì phải tìm ra tính quy luật của hoạt động xây dựng pháp luật nên đổi mới tư duy chắc chắn phải là quá trình thực hiện lâu dài.
Cần xác định mối quan hệ giữa pháp luật và đổi mới sáng tạo, theo đó, đổi mới sáng tạo ở đây không chỉ trong lĩnh vực công nghệ và quy trình mà trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, Nhà nước và cá nhân.
2. Một số chủ thuyết về xây dựng pháp luật
Từ khi có Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, chủ thuyết về xây dựng pháp luật đã hình thành. Một số chủ thuyết thực hiện xây dựng pháp luật như sau:
(i) Trong đổi mới sáng tạo, chúng ta chấp nhận rủi ro. Trước đây, chúng ta thường tư duy quản lý, sao cho hạn chế rủi ro, như lo sợ rằng tài trợ, đầu tư thì sẽ bị mất.
(ii) Quan trọng kết quả hơn quá trình. Ví dụ, thời gian qua, trong hỗ trợ, tài trợ đổi mới sáng tạo cho doanh nghiệp, Nhà nước kiểm soát quá trình nhiều hơn, yêu cầu doanh nghiệp báo cáo rất nhiều, kiểm soát rất nhiều về hóa đơn, chứng từ nên nhiều doanh nghiệp xin trả lại hỗ trợ.
(iii) Tăng tỷ lệ ngân sách đầu tư công cho khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo. Đây là vấn đề đang thiếu, yếu nhất. Nghiên cứu, tìm hiểu kinh nghiệm nhiều nước có sự đột phá về đổi mới sáng tạo, tăng trưởng tốc độ cao nhiều năm cho thấy, bắt buộc phải có ngân sách nhà nước hỗ trợ. Bên cạnh đó phải chấp nhận cơ chế đặt hàng, vấn đề là Nhà nước bỏ gì và đặt hàng gì.
3. Tư duy xây dựng hệ sinh thái chính sách
Một hạn chế hiện nay là còn có tư duy xây dựng pháp luật theo hướng hổng chỗ nào thì “vá” chỗ đó, “tranh thủ” được chỗ nào thì đưa vào chỗ đó, mà chưa có hệ sinh thái chính sách, xây dựng hệ thống văn bản, cơ chế chính sách cho đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp theo mô hình phân tán. Do đó, cần phải nghiên cứu, xây dựng hệ sinh thái về pháp lý.
GS.TS Võ Khánh Vinh phát biểu tại Hội thảo.
4. Về cơ chế sandbox, thực hiện cơ chế thử nghiệm
Thực tiễn pháp luật luôn có “độ trễ” nhất định so với thực tiễn. Nhiều khi, chúng ta phải “chạy” theo thực tiễn và tất cả những vướng mắc cũng liên quan đến “độ trễ”. Chính vì thế, để giải quyết vấn đề này, Việt Nam cần nghiên cứu áp dụng cơ chế sandbox. Đây là một khái niệm mới, Việt Nam đã khởi động cách đây gần ba năm, nhưng đến hiện nay, Việt Nam vẫn chưa có một cơ chế sandbox nào. Gần đây, tại dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về thí điểm một số chính sách để tháo gỡ vướng mắc trong hoạt động khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia đã đưa vào nội dung sandbox. Tuy nhiên, nội dung này chưa thể giải quyết được vấn đề. Do vậy, nhiều ý kiến cho rằng điều quan trọng nhất cần xác định “sandbox là gì”? Đó là việc quy định pháp luật hiện hành không thể điều chỉnh được những đổi mới sáng tạo, sự phát triển của khoa học, công nghệ và cần có cơ chế sandbox để điều chỉnh những vấn đề mà luật hiện hành chưa có. Ở Liên Bang Nga, Hoa Kỳ đều có một luật riêng quy định về nội dung này. Hiện nay, chúng ta cũng đã đưa một số nội dung vào Luật Thủ đô, Luật Các tổ chức tín dụng và Nghị quyết số 98/2023/QH15 ngày 24/6/2023 về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển Thành phố Hồ Chí Minh và tiếp tục dự kiến đưa vào Luật Khoa học và công nghệ, Luật Công nghiệp công nghệ số. Có thể thấy, cơ chế sandbox chính là một trong những cơ chế tốt nhất để thúc đẩy sáng tạo. Luật pháp hiện hành chưa có thì sandbox sẽ giúp chúng ta tháo gỡ những vướng mắc. Trong đó, một cơ chế rất quan trọng của sandbox là đi trước thời đại, theo đó, giải phóng, miễn trách nhiệm cho những người xây dựng, người thực thi để mọi người không sợ hãi khi quyết định và thực thi. Khi đó mới “cởi trói” cho đổi mới sáng tạo. Bên cạnh đó, để thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong xây dựng pháp luật cần có Nghị quyết riêng của Quốc hội quy định về vấn đề này.
Bên cạnh đó, tư duy xây dựng pháp luật của chúng ta “chưa tự tin”. Ví dụ, khi phải đối mặt với vấn đề cả thế giới vẫn đang xem xét nghiên cứu, tự dưng tư duy của chúng ta là đồng hành với thế giới, nên đôi khi lại phải chờ xem thế giới thế nào. Ngày trước xây dựng bộ luật mà thế giới có hàng trăm năm kinh nghiệm thì chúng ta có thể tính “thế này, thế kia” và chờ được, nhưng nay thì phải khác, chúng ta phải tự tin hơn. Điều này liên quan đến vấn đề sandbox, trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, ...
Cần nghiên cứu, đưa vào áp dụng có hiệu quả cơ chế thí điểm, thử nghiệm có kiểm soát đối với những thể chế, chính sách mới, chưa có thực tiễn kiểm nghiệm hoặc còn nhiều vấn đề chưa rõ, chưa thật chín muồi để bảo đảm thích ứng linh hoạt, đáp ứng kịp thời với yêu cầu, biến chuyển của tình hình phát triển của xã hội; trong đó cần mạnh dạn phân cấp, phân quyền, đề cao tính tự chủ, sáng tạo đi đôi với tăng cường cơ chế kiểm soát chặt chẽ quá trình thực hiện cơ chế thí điểm, thử nghiệm.
Cần hỗ trợ doanh nghiệp thử nghiệm chính sách trong mô hình sandbox trước khi ban hành chính thức.
5. Kiên quyết loại bỏ “lợi ích nhóm” trong xây dựng pháp luật
Hiện nay, việc kiểm soát quyền lực trong xây dựng pháp luật còn hạn chế, bất cập; kỷ luật, kỷ cương đôi khi chưa bảo đảm và còn tình trạng “lợi ích nhóm” trong xây dựng pháp luật. Những phương thức để kiểm soát quyền lực trong xây dựng pháp luật, như công tác thẩm tra, thẩm định, phản biện, phân tích chính sách, lấy ý kiến các đối tượng chịu sự tác động, điều chỉnh của văn bản; việc công khai, minh bạch quá trình xây dựng pháp luật ở tất cả các khâu chưa thực sự hiệu quả. Việc tham vấn công chúng trong xây dựng pháp luật còn hình thức; trách nhiệm phản hồi, tiếp thu, chỉnh lý văn bản sau tham vấn công chúng chưa rõ ràng. Điều này là nguyên nhân làm cho lợi ích cục bộ, lợi ích ngành đâu đó còn tồn tại trong xây dựng pháp luật.
Đề nghị tập trung kiểm soát quyền lực trong xây dựng pháp luật, siết chặt kỷ luật, kỷ cương, đề cao trách nhiệm, nhất là trách nhiệm người đứng đầu, kiên quyết chống tiêu cực, “lợi ích nhóm”. Thiết lập cơ chế bảo đảm kiểm soát và loại bỏ lợi ích nhóm tiêu cực trong xây dựng pháp luật là một trong những giải pháp quan trọng để đảm bảo cho pháp luật được xây dựng công bằng, minh bạch theo đúng tinh thần của Quy định số 178-QĐ/TW ngày 27/6/2024 của Bộ Chính trị về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác xây dựng pháp luật.
Trong cơ chế kiểm soát, loại bỏ “lợi ích nhóm”, tiêu cực phải bảo đảm sự tham gia của Nhân dân nói chung và đối tượng chịu sự điều chỉnh của văn bản nói riêng. Bên cạnh việc ghi nhận quyền tham gia của Nhân dân (bao gồm cả các nhóm lợi ích) trong xây dựng pháp luật thì cần phải bảo đảm loại bỏ những lợi ích nhóm tiêu cực (nghĩa là loại bỏ khả năng tham nhũng chính sách).
PGS.TS. Trần Văn Độ phát biểu tại Hội thảo.
6. Cần chuyển từ tư duy “áp đặt” sang tư duy “tạo lập khung pháp lý mở”
Luật ống, luật khung, cần tư duy theo hướng, xây dựng quy tắc xử sự chung điều chỉnh tất cả các hiện tượng tương tự trong một quy phạm.
Bảo đảm chất lượng của pháp luật phải mang tính ổn định, có giá trị lâu dài; thay đổi cách tiếp cận khi xây dựng luật theo hướng luật chỉ quy định những vấn đề khung, những vấn đề có tính nguyên tắc; không cần quá dài. Những vấn đề thực tiễn biến động thường xuyên thì giao Chính phủ, địa phương quy định để bảo đảm linh hoạt trong điều hành theo đúng tinh thần của Trung ương.
Cần chuyển từ tư duy “áp đặt” sang tư duy “tạo lập khung pháp lý mở” nhằm giảm bớt các quy định mang tính chi tiết, cứng nhắc và tạo khung pháp lý linh hoạt để các bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp có thể vận dụng phù hợp với điều kiện thực tế.
Xây dựng pháp luật phải ngắn gọn hơn, phải hạn chế phạm vi điều chỉnh và các đối tượng điều chỉnh, nếu quy định dàn trải quá, nhiều quá sẽ rất khó khăn trong quá trình sửa đổi, vì sửa chỗ này lại động chạm chỗ khác.
Có đại biểu nêu ý kiến: có quan điểm cho rằng luật là nguyên tắc nhưng cũng có quan điểm cho rằng luật càng cụ thể càng tốt, theo đại biểu, cả hai quan điểm này đều không đúng vì nó có biện chứng. Tính chất cụ thể của một văn bản quy phạm pháp luật phụ thuộc vào tính chất, vai trò, nội dung của văn bản đó. Ví dụ, Hiến pháp với tính chất là đạo luật cơ bản, là hình thái của đất nước nên chỉ là “hình” mà không thể cụ thể được. Bên cạnh đó, thế giới phân thành luật công và luật tư. Luật công thể hiện quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân nên càng cụ thể càng tốt, bảo vệ người dân với tư cách bảo vệ một bên yếu thế trong quan hệ với Nhà nước. Luật tư điều chỉnh giữa hai bên trên cơ sở thỏa thuận nên chỉ cần đưa ra “khung”, “nguyên tắc”. Chính vì vậy, không thể nói rằng xây dựng luật “khung”, “nguyên tắc” hay cụ thể mà phải tùy thuộc vào nội dung, tính chất của đạo luật đó.
7. Tư duy xây dựng pháp luật đa ngành, đa chiều, tránh một chiều
Thực tiễn đa dạng, phức tạp, đa chiều thì tư duy xây dựng pháp luật không thể tư duy thuần túy pháp lý, mà phải là tư duy đa ngành, liên ngành. Theo đó, người xây dựng pháp luật phải trang bị cho mình tư duy kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa,… cho bảo đảm, phù hợp.
Đôi khi chúng ta còn “sử dụng quá mức” pháp luật, coi pháp luật là “thần dược” giải quyết mọi vấn đề. Do đó, phải tính toán pháp luật cần điều chỉnh đến đâu cho phù hợp. Vì vậy, bên cạnh xây dựng pháp luật thì cần phải phát huy vai trò của đạo đức xã hội, quy tắc đạo đức nghề nghiệp, quy tắc tự quản là vô cùng quan trọng.
Cần xác định lập pháp là một môi trường dân chủ, là nơi để cọ xát các nhu cầu, lợi ích sống còn của xã hội, của con người, chứ không chỉ là quy định thuần túy. Cần có một tư duy lập pháp bao trùm tổng thể hệ thống và đa phương diện, từ đó dẫn đến nhận thức xây dựng pháp luật không chỉ là vấn đề pháp lý đơn thuần mà là một vấn đề vừa mang tính chính trị, vừa mang tính xã hội, văn hóa, con người, đối nội, đối ngoại.
GS.TS. Lê Hồng Hạnh phát biểu tại Hội thảo.
8. Tư duy xây dựng pháp luật phải toàn cục, toàn diện hơn
Tư duy xây dựng pháp luật hiện nay, đôi khi chưa toàn cục, không xuất phát từ lợi ích toàn cục. Do đó, ngành này thì thấy việc này, việc kia là quan trọng, nhưng đặt trong chỉnh thể thì “nhô” chỗ này lại không ăn khớp với chỗ khác, làm cho tính chỉnh thể của cả hệ thống pháp luật có vấn đề. Vì vậy, cần phải có tư duy xử lý vấn đề toàn cục, có hệ thống hơn.
“Điểm nghẽn” của luật này chưa chắc đã là “điểm nghẽn” của luật khác, vì vậy, cần có sự đánh giá toàn diện, không chỉ tập trung vào các “điểm nghẽn” của từng lĩnh vực riêng lẻ mà phải xem xét tổng thể hệ thống, để bảo đảm các văn bản pháp luật được xây dựng một cách phù hợp và hiệu quả.
9. Tư duy xây dựng pháp luật để phục vụ mục đích phát triển xã hội, không phải chủ yếu là công cụ để quản lý
Một hạn chế trong tư duy xây dựng pháp luật hiện nay, coi pháp luật chủ yếu là công cụ để quản lý xã hội, giải quyết những vấn đề bất cập, vướng mắc trước mắt của thực tiễn, mà chưa dự báo được định hướng phát triển lâu dài cho các quan hệ xã hội, để tạo lập môi trường pháp lý, chưa nhằm kiến tạo sự phát triển của xã hội. Biểu hiện rõ nét nhất trong quy trình xây dựng pháp luật đó là giai đoạn đề xuất chính sách mà trọng tâm là hoạt động đánh giá tác động của chính sách. Tuy nhiên, thực tế cho thấy hoạt động này được thực hiện nhưng còn mang tính hình thức, chưa thực chất, chưa có cơ chế kiếm soát chất lượng đối với báo cáo đánh giá tác động của chính sách, chủ yếu thực hiện cho đủ hồ sơ để trình.
Việc xây dựng pháp luật thì không bao giờ có mục đích tự thân mà xây dựng pháp luật là để phục vụ sự phát triển xã hội. Chính vì vậy, thực tiễn đòi hỏi nhanh thì tốc độ xây dựng pháp luật cũng phải nhanh hơn.
Hệ thống pháp luật cần phải được xây dựng và hoàn thiện bằng một tư duy mới đó là xây dựng pháp luật vì mục tiêu kiến tạo sự phát triển xã hội chứ không phải là để quản lý, để cai trị xã hội.
Cần phải chuyển từ tư duy “quản lý” sang tư duy “tạo điều kiện phát triển”, theo đó, thay vì tập trung vào kiểm soát, hạn chế thì văn bản quy phạm pháp luật cần khuyến khích sáng tạo, hỗ trợ người dân, doanh nghiệp và có cơ chế “hậu kiểm” thay vì “tiền kiểm” (chỉ kiểm soát sau khi áp dụng, thay vì yêu cầu hàng loạt giấy phép trước khi thực hiện).
10. Tránh tư duy “không quản được thì cấm”, đã cấm phải đưa vào luật
Chuyển đổi tư duy xây dựng pháp luật theo hướng vừa bảo đảm yêu cầu quản lý nhà nước, vừa khuyến khích sáng tạo, giải phóng toàn bộ sức sản xuất, khơi thông mọi nguồn lực để phát triển. Tư duy quản lý không cứng nhắc, dứt khoát từ bỏ tư duy “không biết mà vẫn quản, không biết cũng quản, không quản được thì cấm”. Quán triệt tư duy ai quản tốt nhất thì giao và người dân, doanh nghiệp được làm tất cả những gì luật không cấm, nếu đã cấm thì buộc phải đưa vào luật. Những gì không cấm thì tạo không gian để sáng tạo. Cái gì người dân, doanh nghiệp làm được và làm tốt hơn thì Nhà nước dứt khoát không làm.
TS. Nguyễn Thị Kim Thoa phát biểu tại Hội thảo.
11. Quy trình xây dựng pháp luật phải liên tục, không bị “cắt khúc”
Thời gian qua tồn tại hạn chế là có sự cắt khúc trong quy trình xây dựng pháp luật. Quy trình xây dựng pháp luật phải bảo đảm sự thống nhất, liên thông, liên tục, không bị cắt khúc trong quy trình lập pháp và người nào có sáng kiến pháp luật thì phải theo đến cùng. Nếu cơ quan trình dự án không thể bảo vệ quan điểm, chính sách đã được lựa chọn, phân tích, thì họ sẽ không phải chịu trách nhiệm đến cùng về chính sách đã được lựa chọn và chất lượng của đạo luật. Về nguyên tắc, việc thông qua một dự án luật thuộc thẩm quyền của Quốc hội nhưng cơ quan trình dự án luật cần phải được bảo vệ lập trường chính sách, quan điểm của mình trong toàn bộ quá trình soạn thảo, chỉnh lý, trình hay không trình dự án luật. Khi bị cắt khúc, cơ quan soạn thảo không thể hiện được trách nhiệm đến cùng với chất lượng của dự thảo luật và cơ quan thẩm tra cũng không có trách nhiệm thực sự rõ ràng khi vừa đóng vai trò thẩm tra, vừa đóng vai trò tiếp thu, chỉnh lý. Sẽ là hợp lý hơn nếu cơ quan thẩm tra chỉ làm đúng chức năng thẩm tra của mình là giúp Quốc hội xem xét, thậm chí có thể đề nghị Quốc hội không thông qua một dự án luật. Cơ quan thẩm tra không nên làm thay và tước đi quyền đề xuất hay không đề xuất chính sách của cơ quan trình dự án luật, nhất là của Chính phủ. Vấn đề này về cơ bản cũng đã được giải quyết trong Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 mới được ban hành.
Đề nghị giải pháp quy trình xây dựng pháp luật phải bảo đảm sự thống nhất, liên thông, liên tục, không bị cắt khúc trong quy trình lập pháp và người nào có sáng kiến pháp luật thì phải theo đến cùng. Phân biệt rõ vai trò của Quốc hội và Chính phủ trong xây dựng luật. Chính phủ là người trình, còn Quốc hội là người quyết định (thông qua) luật.
12. Tư duy xây dựng pháp luật phải xuất phát từ thực tiễn, khách quan, tránh hình thức, giáo điều
Xây dựng pháp luật phải xuất phát từ thực tiễn, đeo bám vấn đề thực tiễn, đặc biệt là tôn trọng quy luật khách quan, không thể chủ quan duy ý chí trong bất kỳ tình huống nào và tránh mọi biểu hiện giáo điều. Trong khoa học, sao chép máy móc pháp luật nước ngoài cũng là một giáo điều, bởi vì mỗi đất nước cũng rất khác nhau.
13. Xây dựng pháp luật cần quan tâm công tác dự báo, thực hiện nghiêm túc đánh giá chính sách
Hiện nay, có hạn chế là chúng ta chưa quan tâm nhiều đến công tác dự báo nên pháp luật còn thiếu sự ổn định.
Trong tiến trình hiện đại hóa pháp luật, phải thay đổi mạnh mẽ, từ chỗ thụ động, chạy theo sự việc, hiện tượng xã hội, quan hệ xã hội sang chủ động, đón đầu và định hướng cho quan hệ xã hội để đáp ứng yêu cầu điều chỉnh các quan hệ kinh tế - xã hội mới phát sinh.
Đề nghị trong quy trình xây dựng pháp luật cần coi trọng khâu phân tích chính sách, đánh giá tác động của chính sách một cách thực chất, bảo đảm tính dự báo lâu dài của pháp luật.
Cần đánh giá tác động chính sách một cách nghiêm túc; mỗi quy định mới cần đánh giá tác động đến ngân sách, doanh nghiệp và xã hội; so sánh với các nước có điều kiện tương đồng để học hỏi và tránh sai lầm.
Cần tổ chức hội thảo, khảo sát thực tế để đánh giá tác động chính sách.
Điểm cầu Sở Tư pháp tỉnh Khánh Hòa.
14. Tăng cường cơ chế phản biện và cần lắng nghe nhiều hơn trong xây dựng pháp luật
Tăng cường cơ chế phản biện xã hội trong xây dựng pháp luật. Đây là điểm yếu của chúng ra, “rất một chiều”. Nhà nước có quyền làm ra luật nhưng người chịu sự tác động có quyền phản ứng và luôn tạo sự xung đột, đối kháng, đấu tranh. Đổi mới quá trình xây dựng pháp luật cần phải lắng nghe, tiếp thu ý kiến đóng góp từ các bên liên quan và có sự tham gia của các chuyên gia có kiến thức sâu rộng. Việc này sẽ giúp tạo ra các văn bản pháp luật phù hợp, hiệu quả hơn và hạn chế được việc sửa đổi các văn bản pháp luật một cách vội vàng sau khi đã ban hành.
Tăng chủ thể tham gia phản biện, không phải chỉ những người thực hiện đổi mới sáng tạo, mà còn các chủ thể khác, đặc biệt là các chuyên gia, giáo sư…
Cần thành lập hội đồng phản biện luật gồm chuyên gia độc lập để đánh giá hiệu quả thực thi; tạo cơ chế cho người dân, doanh nghiệp phản ánh khó khăn khi áp dụng luật qua các kênh trực tuyến.
Nhà xây dựng pháp luật cần lắng nghe nhiều hơn, chấp nhận ý tưởng đề xuất từ đối tượng chịu sự tác động vì công chức làm luật với thời gian hành chính, trong phòng làm việc, không thể thâm nhập thực tiễn sôi động, đa dạng, trong khi pháp luật phải phản ánh hơi thở thực tiễn. Do đó, nhiều vấn đề mới cần chấp nhận doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp, người dân có ý tưởng và trực tiếp đề xuất, thậm chí là thiết kế cả dự thảo, sau đó ta tiếp nhận, tính toán xử lý.
Pháp luật cần dựa trên phân tích dữ liệu, khảo sát thực tế để bảo đảm phù hợp với nhu cầu của người dân và doanh nghiệp; có cơ chế phản hồi nhanh để sửa đổi, bổ sung kịp thời khi phát sinh bất cập.
Cần bắt buộc lấy ý kiến đa chiều từ người dân, doanh nghiệp, chuyên gia trong lĩnh vực liên quan; các hiệp hội ngành nghề, tổ chức phi chính phủ; cơ quan thực thi pháp luật để bảo đảm khả năng áp dụng.
Các đại biểu tham dự Hội thảo trực tuyến tại các điểm cầu.
15. Cần tư duy đặt lợi ích của người dân, doanh nghiệp lên trên và có cơ chế thi hành trong trường hợp hệ thống pháp luật có khiếm khuyết
Cần thống nhất những nguyên tắc trong việc áp dụng và thực thi pháp luật, đặt lợi ích của người dân và doanh nghiệp lên trên khiếm khuyết của luật. Cần đưa ra cơ chế thi hành pháp luật trong trường hợp pháp luật còn khiếm khuyết, mâu thuẫn, chồng chéo. Trong trường hợp pháp luật còn khiếm khuyết, mâu thuẫn chồng chéo, có nhiều cách hiểu khác nhau, thì người dân, doanh nghiệp, người áp dụng pháp luật được quyền áp dụng các quy định có lợi nhất và theo cách hiểu tốt nhất, có lợi cho người dân, chứ không phụ thuộc máy móc về câu chữ trong văn bản, đẩy khó khăn, bất lợi về phía người dân, doanh nghiệp. Vì việc xây dựng, hoàn thiện thể chế, pháp luật và bảo đảm hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ, không mâu thuẫn, chồng chéo là trách nhiệm của Nhà nước chứ không phải là trách nhiệm của người dân, doanh nghiệp.
Đồng thời, tăng cường vai trò của Tòa án trong việc giải thích và áp dụng pháp luật một cách linh hoạt.
16. Một số quy định pháp luật cụ thể hạn chế đổi mới sáng tạo và giải pháp hoàn thiện
Quy định về vị trí của Hiến pháp và sửa đổi, bổ sung Hiến pháp: theo quy định, mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp. Trong quá trình ban hành luật, nếu có vấn đề trái Hiến pháp, mặc dù phù hợp với thực tiễn, tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy đổi mới, đương nhiên không được ban hành, mà phải đợi sửa đổi Hiến pháp. Tuy nhiên, nếu theo quy trình sửa Hiến pháp thì rất phức tạp, cần nhiều thời gian… Do vậy, phần nào phải “chấp nhận” khía cạnh phù hợp với Hiến pháp nhưng đồng thời chưa phù hợp thực tiễn, chưa bảo đảm chủ trương đổi mới, sáng tạo.
Một số quy định pháp luật về tổ chức, bộ máy: (i) Về Quốc hội: theo quy định của Hiến pháp, một số nhiệm vụ của Quốc hội mang tính thường xuyên, một số nhiệm vụ mang tính cấp bách, nhưng Quốc hội lại họp theo kỳ (dù cũng có quy định về họp bất thường). Như vậy, khả năng giải quyết vấn đề/ban hành văn bản để xử lý vụ việc không thể kịp thời, thúc đẩy đổi mới, sáng tạo. (ii) Về Chính phủ: theo quy định của Hiến pháp, Chính phủ có rất nhiều nhiệm vụ phải chỉ đạo và thường xuyên tổ chức thực hiện để kịp thời đưa pháp luật vào cuộc sống, kịp thời tháo gỡ bất cập và đưa ra biện pháp hợp lý để thi hành nhưng theo Luật Tổ chức Chính phủ thì Chính phủ họp thường kỳ mỗi tháng một phiên hoặc họp chuyên đề... Quy định này, phần nào hạn chế tính năng động, sự chủ động của Chính phủ trong quá trình quản lý, điều hành đất nước. Kinh nghiệm nhiều nước, việc tổ chức phiên họp của Chính phủ được tiến hành bất cứ vào thời gian nào để kịp thời xử lý, tháo gỡ tình huống phát sinh trong thực tiễn. Việc không quy định cứng kỳ họp của Chính phủ sẽ tạo điều kiện để Chính phủ điều hành một cách năng động, sáng tạo, kịp thời tháo gỡ điểm nghẽn để thúc đẩy phát triển. (iii) Về chính quyền địa phương, theo quy định của Hiến pháp, chính quyền địa phương được tổ chức ở ba cấp (cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã). Trong quá trình nghiên cứu chủ chương tiếp tục cải cách tổ chức bộ máy đặt ra vấn đề có cần tiếp tục duy trì chính quyền địa phương cấp huyện không? Nếu câu trả lời là không thì vấn đề ở đây là phải sửa Hiến pháp.
Một số quy định về trách nhiệm của tập thể, của người đứng đầu: Có những nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ tướng Chính phủ theo quy định của Hiến pháp chưa thực sự phù hợp với vị trí Thủ tướng và mang tính hình thức làm hạn chế hiệu quả điều hành để thúc đẩy đổi mới, sáng tạo. Bên cạnh đó, Luật Tổ chức chính quyền địa phương quy định quá nhiều nhiệm vụ cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh với cách quy định vừa ôm đồm, hình thức, không hiệu quả và gây khó cho Chủ tịch.
Chẳng hạn, Luật Hộ tịch quy định Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã cấp giấy khai sinh, cấp trích lục cho người yêu cầu đăng ký nhận cha, mẹ, con, như vậy, vừa không hợp lý, vừa gây khó khăn, ách tắc trong quản lý hành chính và không nâng cao trách nhiệm của người trực tiếp xử lý vụ việc (trong khi kinh nghiệm từ Đức, cán bộ chuyên môn sẽ trực tiếp ký, cấp giấy khai sinh và chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi của mình). Luật Đất đai năm 2024 quy định thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện vừa không phù hợp, không hợp lý với nhiệm vụ của Ủy ban, vừa tạo cơ chế đùn đẩy trách nhiệm. Sẽ hiệu quả hơn, hợp lý hơn, nếu giao thẩm quyền đó cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân, thậm chí Giám đốc Sở… trên cơ sở điều kiện được cấp đã quy định rõ trong Luật Đất đai và tăng cường cơ chế thanh tra, kiểm tra, khiếu nại, tố cáo, giám sát.
Về trách nhiệm pháp lý của cán bộ, công chức: các luật hiện hành quy định chưa thống nhất, thậm chí “bỏ ngỏ” quy định không xử lý đối với người thi hành công vụ vì lợi ích cộng đồng, vì tính công bằng của pháp luật mà không áp dụng các quy định pháp luật hiện hành hoặc áp dụng sai. Hậu quả của việc này là không khuyến khích được cán bộ dám nghĩ, dám làm vì lợi ích chung của đất nước, vì lợi ích cộng đồng. Cụ thể: Luật Cán bộ, công chức loại trừ trách nhiệm của công chức trong trường hợp khi có căn cứ cho rằng quyết định được ban hành để thực thi là trái pháp luật, đã kịp thời báo cáo nhưng người ra quyết định vẫn quyết định việc thi hành thì công chức đó không phải chịu trách nhiệm về hậu quả thi hành. Tuy nhiên, Bộ luật Hình sự chưa có quy định không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người khi thực thi công vụ dám nghĩ, dám làm một số quy định trái pháp luật nhưng vô tư, khách quan, thiện chí vì lợi ích cộng đồng. Điều này sẽ không khuyến khích, động viên sự đổi mới, sáng tạo, tận tâm của người thực thi công vụ. Bên cạnh đó, Luật Trách nhiệm bồi thường Nhà nước cũng quy định trong mọi trường hợp, nếu người thực thi công vụ trái quy định của pháp luật mà có lỗi thì đều có trách nhiệm hoàn trả mà không loại trừ trách nhiệm như Luật Cán bộ, công chức.
Các đại biểu tham dự Hội thảo.
17. Giải pháp hoàn thiện
Nghiên cứu sửa Hiến pháp năm 2013: bỏ quy định Quốc hội họp theo kỳ; bỏ quy định về tổ chức đơn vị hành chính cấp huyện; sửa đổi quy định về nhiệm vụ của Thủ tướng Chính phủ; sửa quy định về Ủy ban nhân dân; sửa quy định về sửa đổi, bổ sung hiến pháp; bổ sung quy định nguyên tắc: lập pháp phải hợp hiến; hành pháp, tư pháp phải trên cơ sở pháp luật và tính công bằng của pháp luật, như kinh nghiệm của Đức.
Nghiên cứu sửa đổi các quy định về Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức Chính quyền địa phương theo hướng bỏ hình thức hoạt động của Chính phủ, Ủy ban theo kỳ; chỉnh lý lại nhiệm vụ của tập thể, của người đứng đầu cho phù hợp, tránh hình thức.
Nghiên cứu sửa đổi các luật chuyên ngành, như Luật Đất đai, Luật Hộ tịch, Luật Đầu tư… theo hướng quy định trách nhiệm cho cá nhân trực tiếp xử lý vụ việc, nắm rõ sự việc, kèm theo cơ chế thanh tra, kiểm tra, khiếu nại, tố cáo, giám sát.
Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Luật Trách nhiệm bồi thường nhà nước, Bộ luật Hình sự theo hướng không truy cứu trách nhiệm hình sự, không quy định trách nhiệm hoàn trả trong trường hợp người thực thi công vụ trên cơ sở pháp luật, trên cơ sở tính công bằng của pháp luật mà khách quan, vì lợi ích cộng đồng trong trường hợp thi hành công vụ khác với pháp luật hiện hành.
Xây dựng luật riêng về đổi mới sáng tạo
Cần có một luật trong đó có trọng tâm là đổi mới sáng tạo. Hiện nay, chúng ta đang cố gắng tích luật khoa học công nghệ cùng luật đổi mới sáng tạo trong một hệ luật. Nên chăng chúng ta tư duy là đổi mới sáng tạo không nhất thiết là câu chuyện đi từ công nghệ.
Cũng có đại biểu đặt vấn đề là đổi mới sáng tạo nên có một luật đổi mới sáng tạo riêng với Luật Khoa học và Công nghệ, hay là chúng ta có nhiều luật ở nhiều lĩnh vực chứ một luật liệu có đủ hay không?
Một số gợi mở về xây dựng cơ chế, chính sách pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo
Bối cảnh hiện tại của đất nước đang là “thời cơ vàng” để hoàn thiện cơ chế, chính sách về đổi mới sáng tạo. Khi hoàn thiện các cơ chế, chính sách, cần phải bám sát nội dung, cụ thể hóa nhanh các chủ trương đột phá trong Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia và Nghị quyết số 03/NQ-CP ngày 09/01/2025 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
Cần phải giải quyết “khoảng trống” cơ chế, chính sách về phát triển các khu vực đổi mới sáng tạo tương ứng với số lượng doanh nghiệp và tiềm năng của các địa phương lớn và các lĩnh vực trọng tâm phát triển. Gắn đổi mới sáng tạo với quy hoạch phát triển kinh tế xã hội từng địa phương.
Thiếu cơ chế và chính sách thực sự để thúc đẩy liên kết giữa nhà trường, viện nghiên cứu và doanh nghiệp. Hiện nay, các nước lớn trên thế giới đều triển khai mô hình “ba vòng xoắn của đổi mới” (Triple Helix), các hệ thống luật pháp họ được tổ chức theo mô hình là “ba nhà” là Nhà nước, nhà trường, doanh nghiệp. Tại Việt Nam đang thiếu cơ chế, chính sách đối với mô hình nhà trường tham gia vào đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp. Vì vậy, cần phải “cởi trói” cơ chế, chính sách để thúc đẩy liên kết giữa cơ quan nhà nước và các trường đại học/viện nghiên cứu để hỗ trợ đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp.
Cần xây dựng khung pháp lý để hỗ trợ cho việc xây dựng và triển khai các Chương trình, dự án lớn, dài hạn, có trọng điểm sử dụng ngân sách nhà nước. Các cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật cần phải nắm được một số hướng dẫn về xu hướng kinh tế để xây dựng khung pháp lý hỗ trợ cho việc xây dựng và hoàn thiện hệ sinh thái đổi mới sáng tạo một cách đồng bộ, từ đầu tư mạo hiểm, đầu tư thiên thần, mentor, startup, gọi vốn cộng đồng… đến tập đoàn kinh tế, doanh nghiệp nhà nước.
Việt Nam đang trở thành một trung tâm đổi mới về ngành bán dẫn và công nghiệp điện tử và cần thiết có cơ chế và chính sách cho điều này. Vì vậy, cần phải hoàn thiện khung pháp luật khuyến khích, ưu đãi đầu tư và “cơ chế thử nghiệm có kiểm soát” để hỗ trợ đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp trong các lĩnh vực để tận dụng/giải quyết các xu thế lớn: kinh tế AI, kinh tế chia sẻ; chuyển dịch bán dẫn, công nghiệp điện tử; chuyển dịch năng lượng mới, năng lượng H2 (hydrogen), năng lượng nguyên tử; bảo vệ môi trường; già hóa dân số, di cư…
Giải quyết vấn đề xung đột pháp lý giữa lĩnh vực cạnh tranh và sở hữu trí tuệ
Xây dựng khung pháp lý cụ thể giải quyết xung đột giữa Luật Sở hữu trí tuệ và Luật Cạnh tranh có mục đích chính là kiểm soát khả năng lạm dụng quyền sở hữu trí tuệ để cản trở cạnh tranh trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm của các nước, chẳng hạn như của Trung Quốc…
Xây dựng và thúc đẩy cơ chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan, chẳng hạn như Cục Quản lý cạnh tranh - Cục Sở hữu trí tuệ để kiếm soát quyền độc quyền, bảo đảm cân bằng giữa bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và quyền tự do cạnh tranh; Cục Quản lý dược - Cục Sở hữu trí tuệ liên quan đến phát triển thị trường dược phẩm generic để dược phẩm có thể tiếp cận được với giá cả hợp lý, tránh độc quyền về giá dược phẩm.
Ứng dụng công nghệ trong xây dựng pháp luật
Hiện đại hóa phương thức và phương tiện xây dựng pháp luật. Khai thác, ứng dụng tối đa thành tựu của khoa học, kỹ thuật, nhất là ứng dụng công nghệ thông tin nhằm nâng cao chất lượng xây dựng pháp luật. Tận dụng triệt để dữ liệu lớn, điện toán đám mây, trí tuệ nhân tạo và các công nghệ hiện đại khác để xây dựng, hoàn thiện “Nhà nước pháp quyền thông minh”. Thúc đẩy số hóa, mạng hóa, tối ưu hóa và tích hợp các nền tảng thông tin, dữ liệu và mạng lưới khác nhau trong lĩnh vực xây dựng pháp luật.
Cần sử dụng trí tuệ nhân tạo để phân tích dữ liệu, đánh giá tác động của chính sách, dự báo hiệu quả thực thi (AI và Big Data); công khai các dự thảo luật để người dân, doanh nghiệp, chuyên gia dễ dàng đóng góp ý kiến; xây dựng kho dữ liệu pháp luật, giúp tra cứu dễ dàng và hạn chế mâu thuẫn giữa các quy định.
Cần tạo nền tảng tra cứu pháp luật chung, tích hợp đầy đủ thông tin về các văn bản pháp luật để doanh nghiệp và người dân dễ tiếp cận; ứng dụng blockchain để lưu trữ và theo dõi việc sửa đổi, bổ sung văn bản quy phạm pháp luật.
Về nguồn lực tài chính, nhân lực cho xây dựng pháp luật
Cần phải coi xây dựng pháp luật là hoạt động tốn kém. Luật pháp chính là tạo con đường vô hình, con đường hết sức đặc biệt cho cả dân tộc, đất nước đi, nhìn dưới con mắt của công nghệ số đây là “hệ điều hành của quốc gia” nên phải rất “xịn”, rất “chuẩn”, đã ra sản phẩm như vậy thì phải “đắt đỏ’, phải chấp nhận đầu tư. Do đó, cần phải đầu tư nguồn lực tài chính, nhân lực chất lượng cao. Cần phải có giải pháp đột phá để giải quyết vấn đề về nguồn lực tài chính cho xây dựng pháp luật.
Coi xây dựng pháp luật là hoạt động khoa học thực sự, là hoạt động của những chuyên gia hàng đầu, cần được coi trọng, đề cao.
Cần đầu tư nguồn lực, đặc biệt là khâu phân tích, đánh giá tác động của chính sách.
Cần phải đổi mới cơ chế phân bổ kinh phí cho xây dựng pháp luật, bảo đảm đủ để đáp ứng một cách thực chất các yêu cầu đổi mới quy trình và nâng cao chất lượng của chính sách, dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, nhất là việc điều tra, khảo sát thực tế, đánh giá tác động kinh tế xã hội của chính sách, pháp luật và việc lấy ý kiến của nhân dân, đặc biệt là những đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản.
Hiện nay, thu hút quỹ đầu tư cho khởi nghiệp sáng tạo còn rất nhỏ, cần phải được thu hút đầu tư mạnh mẽ hơn nữa.
Cần phải thực hiện có hiệu quả Đề án tăng cường năng lực cho đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác pháp luật, nòng cốt là đội ngũ cán bộ xây dựng pháp luật; nghiên cứu xây dựng chế độ phụ cấp cho cán bộ làm công tác pháp chế.
Cần nâng cao năng lực chuyên môn và đầu tư thỏa đáng cho người làm người trực tiếp xây dựng và soạn thảo chính sách, pháp luật; không chỉ tập trung vào kỹ năng soạn thảo văn bản, mà cần chú trọng đến năng lực chuyên môn, kiến thức xã hội sâu rộng.
Xây dựng chương trình đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu về khoa học, công nghệ và chuyển đổi số; đồng thời, có cơ chế thu hút chuyên gia, nhà khoa học từ nước ngoài để phát triển nguồn nhân lực xây dựng pháp luật.
Cần có các chính sách ưu đãi về thuế, tín dụng và đất đai cho doanh nghiệp đầu tư vào nghiên cứu, phát triển và ứng dụng công nghệ mới.
Cần phải thành lập Tòa án Hiến pháp
Cần xác định đổi mới tư duy xây dựng pháp luật là để thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Theo đó, phải có kiến thuyết, học thuyết, chính sách ở tầm vĩ mô về xây dựng pháp luật nói chung, trong đó lấy lập pháp, rộng hơn nữa là lập hiến để phát triển.
Một số đề xuất khác
Xây dựng pháp luật phải bảo đảm tính chuyên nghiệp, khoa học, kịp thời, khả thi, hiệu quả. Xây dựng pháp luật không khả thi sẽ không thể thi hành được, gây ra sự lãng phí lớn.
Chủ động, tích cực, khẩn trương xây dựng hành lang pháp lý cho những vấn đề mới, xu hướng mới (nhất là những vấn đề liên quan đến cách mạng 4.0, trí tuệ nhân tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh…) tạo khung khổ pháp lý để thực hiện thành công cuộc cách mạng về chuyển đổi số, tạo đột phá cho phát triển đất nước những năm tiếp theo.
Cần xây dựng hệ thống pháp luật thống nhất, tránh mâu thuẫn giữa các luật, nghị định, thông tư; hạn chế thuật ngữ chuyên môn phức tạp, diễn đạt rõ ràng, dễ hiểu; cụ thể hóa trách nhiệm và chế tài xử lý, xác định rõ ai làm gì, trách nhiệm đến đâu, xử lý thế nào nếu vi phạm.
Cần quy định rõ thời gian rà soát, sửa đổi luật định kỳ để kịp thời điều chỉnh.
Cần xây dựng tiêu chí “thúc đẩy đổi mới sáng tạo” khi thẩm định các văn bản quy phạm pháp luật để tạo sự đồng bộ, thống nhất trong toàn bộ hệ thống pháp luật.
Có đại biểu cho rằng cần phải ban hành nhiều luật thì đất nước mới phát triển và hiện nay số lượng luật của chúng ta còn ít. Nhưng cũng có quan điểm cho rằng không phải xây dựng nhiều luật hay ít luật là tốt mà còn tùy thuộc điều kiện, hoàn cảnh từng đất nước…
Xem xét tổng kết, sửa đổi Bộ luật Dân sự vì Bộ luật Dân sự hiện hành đã lạc hậu, không còn đủ sức điều chỉnh sự phát triển của công nghệ mới, đặc biệt là sự nổi lên của tài sản vô hình mới như tài sản số, tài sản ảo.
Ban Tạp chí điện tử