1. Chủ tịch Hồ Chí Minh với tư tưởng nhân văn cao đẹp dành cho thương binh, liệt sĩ
Trong suốt chiều dài lịch sử cách mạng chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam, theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, lớp lớp các thế hệ đã lên đường, chung sức, đồng lòng “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Họ thậm chí đã hy sinh cả mạng sống của mình cho độc lập, thống nhất của Tổ quốc. Đó là những người “…quyết hy sinh tính mệnh họ, để giữ gìn tính mệnh của đồng bào. Họ hy sinh gia đình và tài sản của họ, để bảo vệ gia đình và tài sản của đồng bào. Họ quyết liều chết chống địch, để cho Tổ quốc và đồng bào sống. Họ là những chiến sĩ anh dũng của ta. Trong đó, có người đã bỏ lại một phần thân thể ở trước mặt trận. Có người đã bỏ mình ở chiến trường. Đó là thương binh, đó là tử sĩ”[1]. Như vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá chính xác ý nghĩa và giá trị của sự hy vinh vì độc lập, tự do của các chiến sĩ. Là người đứng đầu đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh thấu hiểu những mất mát lớn lao này. Người luôn dành tình cảm nhân văn và đặc biệt nhất đối với thương binh, liệt sĩ và gia đình có công với Tổ quốc. Biểu hiện cụ thể như sau[2]:
Thứ nhất, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn trân trọng, biết ơn sự hy sinh anh dũng của các thương binh, anh hùng liệt sĩ.
Ngay từ ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, đất nước đang trong cảnh thù trong, giặc ngoài, “ngàn cân treo sợi tóc”, nhưng Bác vẫn luôn nhớ đến công ơn của các thương binh, liệt sĩ. Trong bức thư đăng trên Báo Cứu quốc năm 1946, Người viết: “Vì muốn thay mặt Tổ quốc, toàn thể đồng bào và Chính phủ cảm ơn những liệt sĩ đã hy sinh tính mệnh cho nền tự do, độc lập, thống nhất của nước nhà, hoặc trong thời kỳ cách mạng, hoặc trong thời kỳ kháng chiến, tôi gửi lời chào thân ái đến các gia đình liệt sĩ”[3]. Trong bối cảnh Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, dù còn bộn bề với bao nhiêu công việc của một Nhà nước còn non trẻ, nhưng Người vẫn không quên gửi thư tới đồng bào Nam Bộ, trong thư có đoạn viết: Tôi kính cẩn cúi chào vong linh các anh chị em đã bỏ thân vì nước và các đồng bào đã hy sinh trong cuộc đấu tranh cho nước nhà. Sự hy sinh đó không phải là uổng. Sau đó, trong thư gửi đồng bào Việt Nam, Người lại viết: Tôi nghiêng mình trước anh hồn những chiến sĩ và đồng bào Việt Nam đã vì Tổ quốc mà hy sinh anh dũng. Chiến tranh kết thúc, có những người con đã trở về từ trận tuyến nhưng cũng có không ít những người đã mãi mãi ra đi, lại có những người để lại một phần máu thịt của mình - các anh trở về với những thương tật trên cơ thể vì lý tưởng cách mạng cao đẹp.
Thứ hai, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ đạo lấy riêng một ngày để tôn vinh các thương binh, liệt sĩ.
Nhằm chia sẻ nỗi đau của hàng triệu thân nhân liệt sĩ, những bậc ông bà, cha mẹ, những người chồng, người vợ và những người con đã mãi mãi không thể gặp lại người thân yêu của mình, năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra “Thông báo về việc nhận con các liệt sĩ làm con nuôi” với lời lẽ đơn giản mà chân thành, gây xúc động mạnh mẽ lòng người. Nhất quán tình cảm và trách nhiệm đó, tháng 6/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Chỉ thị chọn 01 ngày trong năm làm “Ngày Thương binh” để nhân dân ta có dịp tỏ lòng hiếu nghĩa, yêu mến thương binh, gia đình liệt sĩ và những người có công với đất nước. Thực hiện Chỉ thị của Người, Hội nghị trù bị gồm đại biểu các cơ quan, ban, ngành ở Trung ương và địa phương đã họp ở xã Phú Minh (huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên) bàn bạc, nhất trí đề nghị lấy ngày 27/7/1947 làm “Ngày Thương binh, liệt sĩ”. Từ đó, ngày 27/7 hằng năm trờ thành “Ngày Thương binh, liệt sĩ” của nước ta.
Thứ ba, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn chỉ ra các cách thức để thực hiện tốt công tác thương binh, liệt sĩ.
Công tác thương binh, liệt sĩ là một loại chính sách xã hội đặc biệt, do đó, cần phải thu hút sự tham gia của mọi đối tượng dân cư, mọi ngành, mọi giới; không chỉ là trách nhiệm, nghĩa vụ mà còn là tình cảm, lương tri sống ở đời và làm người, nói lên bản chất ưu việt của chế độ xã hội, nét đẹp văn hóa ứng xử, đạo lý sống của người Việt Nam. Trong các lực lượng xã hội tham gia làm công tác thương binh, liệt sĩ, Đảng Cộng sản phải đóng vai trò khởi xướng, lãnh đạo thông qua hệ thống các chủ trương, đường lối. Do đó, Người kêu gọi chính quyền các cấp, các tầng lớp nhân dân và đoàn thể hãy thể hiện tình cảm thương yêu, trách nhiệm và bổn phận của mình bằng những việc làm thiết thực nhất đối với thương, bệnh binh và gia đình liệt sĩ.
Tuy nhiên, theo Người, công tác thương binh, liệt sĩ không chỉ dừng lại ở chủ trương, khẩu hiệu chung chung mà phải được thể chế hóa thành luật và văn bản dưới luật. Vì vậy, ngay lập tức, Người đã ký một loạt Sắc lệnh nhằm giải quyết chế độ, chính sách cho thương binh, liệt sĩ và gia đình liệt sĩ như: Sắc lệnh số 20-SL ngày 16/02/1947 quy định chế độ hưu bổng, thương tật và tiền tuất cho thân nhân tử sĩ; Sắc lệnh số 58-SL ngày 06/6/1947 tặng Huân chương Sao vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Độc lập để thưởng hoặc truy tặng cho đoàn thể hay những người có công với nước, với dân hoặc tặng cho các nhân vật ngoại quốc đã có công với nước Việt Nam… Về mặt tổ chức thể chế, nhằm tạo cơ sở pháp lý cho chính quyền các cấp hoạt động, ngày 03/10/1947, Người đã ký Sắc lệnh số 101-SL về việc thành lập Sở và Ty Thương binh, cựu binh ở khu và tỉnh.
Thứ tư, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nâng công tác thương binh, liệt sĩ lên ngang tầm một hoạt động văn hóa trên quy mô toàn xã hội, như một truyền thống nhân nghĩa “uống nước nhớ nguồn”, “đền ơn, đáp nghĩa”, “ăn quả nhớ người trồng cây”… - văn hóa đã tồn tại lâu đời của dân tộc Việt Nam.
Người cũng đã khẳng định: “Nhân dân ta đời đời ghi nhớ công ơn các liệt sĩ và chúng ta phải luôn luôn học tập tinh thần dũng cảm của các liệt sĩ để vượt tất cả mọi khó khăn, gian khổ, hoàn thành sự nghiệp cách mạng mà các liệt sĩ đã chuyển lại cho chúng ta”[4]. Theo Người, công tác thương binh, liệt sĩ là một hình thức xây dựng “tượng đài kỷ niệm” trong lòng dân chúng để các thế hệ kế tiếp ghi nhớ công ơn, chiến công của những con người ưu tú đã ngã xuống vì độc lập dân tộc chủ nghĩa xã hội. Người nhấn mạnh đến mục đích cao cả này với những lời từ gan ruột: “Đang khi Tổ quốc lâm nguy, giang sơn, sự nghiệp, mồ mả, đền chùa, nhà nhờ của tổ tiên ta bị uy hiếp, cha mẹ, anh em, vợ, con, thân thích, họ hàng ta bị đe dọa. Của cải, ruộng nương, nhà cửa, ao vườn, làng mạc ta bị nguy ngập. Ai là người xung phong trước hết để chống cự quân thù, để giữ gìn đất nước cho chúng ta. Đó là những chiến sĩ mà nay một số thành ra thương binh”[5]. Vì vậy, các thế hệ kế tiếp phải biết trân trọng, ghi nhớ và đền đáp công ơn này.
Thứ năm, Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là tấm gương sáng trong việc thực hiện công tác thương binh, liệt sĩ.
Mặc dù bận lo cho quốc gia đại sự, nhưng chẳng khi nào Người quên dành thời gian để quan tâm, thăm hỏi, động viên các đồng chí thương binh, liệt sĩ. Hằng năm, đều đặn cứ vào dịp tháng 7, Bác Hồ lại gửi thư thăm hỏi, động viên thương binh, gia đình liệt sĩ, một mặt khẳng định công lao, đóng góp của họ, một mặt động viên họ: “Các đồng chí đã anh dũng giữ gìn non sông, các đồng chí sẽ trở nên người công dân kiểu mẫu ở hậu phương, cũng như các đồng chí đã từng là chiến sĩ kiểu mẫu ở ngoài mặt trận”, để mỗi “thương binh tàn nhưng không phế”[6]. Những bức thư của Người giản dị, chân thành, đó là những lời động viên, an ủi, kêu gọi rất mộc mạc, nhưng cụ thể và thiết thực. Đọc những bức thư đó, thương binh và gia đình các liệt sĩ cũng cảm nhận được tình cảm của Bác Hồ dành cho họ. Tình cảm và trách nhiệm lớn lao với thương binh, gia đình liệt sĩ như vậy, nhưng Người vẫn không quên nhắc nhở: “Các thương binh, bệnh binh và gia đình liệt sĩ: thì cần phải biết ơn sự săn sóc của đồng bào; cần phải cố gắng tăng gia sản xuất, tự lực cánh sinh, tùy theo khả năng mà tham gia công tác trong xã, chớ nên yêu cầu quá đáng, ra vẻ “công thần”[7].
Trong Di chúc của Người trước lúc đi xa, Người còn căn dặn như sau: “Đầu tiên là công việc đối với con người. Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình (cán bộ, binh sĩ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong…), Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần “tự lực cánh sinh”. Đối với các liệt sĩ, mỗi địa phương (thành phố, làng xã) cần xây dựng vườn hoa và bia kỷ niệm ghi sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ, để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta. Đối với cha mẹ, vợ con (của thương binh và liệt sĩ) mà thiếu sức lao động và túng thiếu, thì chính quyền địa phương (nếu ở nông thôn thì chính quyền xã cùng hợp tác xã nông nghiệp) phải giúp đỡ họ có công việc làm ăn thích hợp, quyết không để họ bị đói rét”[8].
Tư tưởng, tình cảm của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với thương binh, liệt sĩ và gia đình có công với cách mạng là sự kế tục và phát triển những tư tưởng, truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta, đó là sự trân trọng, biết ơn những thế hệ đi trước đã cống hiến, hy sinh bảo vệ nền độc lập, tự do.
2. Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm, chăm lo thực hiện chính sách đối với thương binh, liệt sĩ, người có công với cách mạng
Mặc dù chiến tranh đã lùi xa, đất nước Việt Nam đã hòa bình, độc lập và đang trên đà phát triển, hội nhập nhưng những đau thương do chiến tranh để lại vẫn còn đó, vẫn hằn sâu trong đôi mắt của những người mẹ, người vợ, người con. Đối với những thương, bệnh binh thì những vết thương do chiến tranh để lại hàng ngày đau nhức, di chứng do chất độc màu da cam để lại vẫn đang dày vò biết bao số phận. Đâu đó, nhiều gia đình vẫn ngày đêm mòn mỏi ngóng trông, khắc khoải đợi chờ thông tin, phần mộ của cha mẹ mình, con em mình, của vợ chồng mình… Thấu hiểu, chia sẻ với những nỗi đau, mất mát mà các gia đình thương binh, liệt sĩ phải đối mặt, trong suốt 77 năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo làm tốt công tác đền ơn, đáp nghĩa đối với thương binh, bệnh binh, thân nhân liệt sĩ, những người có công với cách mạng, coi đây là nhiệm vụ chính trị quan trọng, thường xuyên.
Gần 40 năm thực hiện Công cuộc đổi mới, Đảng và Nhà nước ta tiếp tục ban hành nhiều quyết sách quan trọng, luôn chú trọng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho thương binh, liệt sĩ, người có công với cách mạng. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (năm 2021), Đảng ra khẳng định quan điểm nhất quán về thực hiện tốt chính sách với người có công, với quyết tâm chính trị là: “Hoàn thiện và thực hiện tốt pháp luật, chính sách đối với người có công trên cơ sở nguồn lực của Nhà nước và xã hội, bảo đảm người có công và gia đình có mức sống từ trung bình khá trở lên trong địa bàn cư trú”[9].
Cùng với những quan điểm chỉ đạo được thể hiện trong văn kiện tại các kỳ đại hội, Đảng ta ban hành nhiều chỉ thị, kết luận quan trọng nhằm tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo các cấp chính quyền không ngừng quan tâm, chăm lo, tạo những điều kiện tốt nhất về chế độ, chính sách đối với người có công, như: Chỉ thị số 07-CT/TW ngày 14/12/2006 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo công tác thương binh, liệt sĩ, người có công và phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”; Chỉ thị số 24-CT/TW ngày 15/5/2013 của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ từ nay đến năm 2020 và những năm tiếp theo; Kết luận số 63-KL/TW ngày 19/7/2007 của Ban Bí thư về tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác người có công với cách mạng đã khẳng định: “Việc chăm lo, thực hiện chính sách ưu đãi người có công với cách mạng là bổn phận, nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Đẩy mạnh hơn nữa cuộc vận động Toàn dân chăm sóc các gia đình thương binh, liệt sĩ và người có công với cách mạng; ủng hộ Quỹ Đền ơn đáp nghĩa để giúp các gia đình chính sách khắc phục khó khăn, cải thiện cuộc sống”.
Nhằm cụ thể hóa chủ trương, đường lối của Đảng cũng như tạo cơ sở, hành lang pháp lý trong thực thi chính sách đối với người có công, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách quan trọng như: Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng (ban hành lần đầu năm 1994) đến nay đã qua 07 lần sửa đổi, bổ sung vào các năm 1998, 2000, 2002, 2005, 2007, 2012 và gần đây nhất là 2020. Có thể thấy, việc sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh là để nhằm hoàn thiện hơn những chính sách, những ưu đãi đối với thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ… Bên cạnh đó, còn có Pháp lệnh phong tặng và truy tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” năm 1994 được sửa đổi, bổ sung năm 2012. Hai Pháp lệnh này về người có công, thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ ra đời là cơ sở, căn cứ quan trọng để Nhà nước và nhân dân không ngừng cố gắng nâng cao chất lượng, hiệu quả trong việc chăm lo cho các gia đình thương binh, liệt sĩ, người có công với cách mạng, giúp họ từng bước cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần.
Ngoài ra còn có rất nhiều chỉ thị, quyết định, đề án quan trọng khác của Chính phủ cũng đã được ban hành, triển khai thực hiện, điển hình như: Chỉ thị về việc thực hiện công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho con liệt sĩ, con thương binh nặng, con bệnh binh nặng năm 2012; Chỉ thị về tăng cường chỉ đạo thực hiện chính sách ưu đãi đối với người có công với cách mạng năm 2016; Chỉ thị về tiếp tục tăng cường công tác chăm sóc người có công với cách mạng, thiết thực kỷ niệm 70 năm Ngày Thương binh, liệt sĩ năm 2017; Quyết định hỗ trợ người có công với cách mạng về nhà ở năm 2013; Quyết định phê duyệt đề án xác định hài cốt liệt sĩ còn thiếu thông tin năm 2013; Quyết định duyệt đề án tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ đến năm 2020 và những năm tiếp theo năm 2013; Nghị định quy định mức trợ cấp, phụ cấp ưu đãi đối với người có công với cách mạng năm 2019…
Với những chủ trương, đường lối, chính sách đúng đắn, phù hợp với truyền thống của dân tộc và sự mong mỏi của nhân dân, chế độ, chính sách đối với người có công với cách mạng nói chung và đối với thương binh, liệt sĩ nói riêng từng bước được mở rộng về đối tượng thụ hưởng với mức trợ cấp được nâng lên hằng năm. Phong trào “Đền ơn, đáp nghĩa” ngày càng được xã hội hóa sâu rộng. Nhiều cơ sở sự nghiệp, chăm sóc sức khỏe được xây dựng phục vụ các đối tượng chính sách. Nhiều nghĩa trang liệt sĩ và các công trình tưởng niệm liệt sĩ đã được xây dựng, trong đó có nhiều nghĩa trang đã trở thành công trình văn hóa - lịch sử của đất nước như: Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn; Nghĩa trang liệt sĩ Điện Biên Phủ[10]…
Như vậy có thể thấy, những tư tưởng nhân văn cao đẹp của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với thương binh, gia đình liệt sĩ, gia đình có công với cách mạng và tấm gương của Người trong công tác này đã được Đảng ta vận dụng, kế thừa, phát huy và cụ thể hóa thành nhiều chủ trương, chính sách hỗ trợ, giúp đỡ thương binh, gia đình liệt sĩ trong giai đoạn hiện nay.
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc thực hiện chính sách đối với thương binh, liệt sĩ và người có công với cách mạng vẫn còn tồn tại một số hạn chế cần khắc phục, giải quyết, cụ thể: Tình trạng sai sót đối tượng trong việc thực hiện chính sách hỗ trợ vẫn còn diễn ra ở một số địa phương; công tác “Đền ơn, đáp nghĩa” ở một số nơi chưa gắn với việc giáo dục truyền thống, tuyên truyền mục đích, ý nghĩa của phong trào, tôn vinh người tốt, việc tốt; chế độ trợ cấp ưu đãi nhìn chung còn thấp, đời sống của gia đình chính sách tuy được cải thiện nhưng vẫn còn thấp; việc học hành của con em thương binh, liệt sĩ, người có công với cách mạng… chưa được bảo đảm…
Để thực hiện tốt hơn nữa công tác chăm lo đời sống cho các gia đình thương binh, liệt sĩ, người có công với cạch mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện mới, cần tập trung thực hiện tốt một số giải pháp chủ yếu sau[11]:
Một là, tiếp tục tuyên truyền sâu rộng chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đối với thương binh, gia đình liệt sĩ và người có công với cách mạng. Đây là công việc cần diễn ra thường xuyên, liên tục do các cấp ủy đảng, chính quyền từ Trung ương đến địa phương trực tiếp lãnh đạo, tiến hành giúp cho mọi cán bộ, đảng viên và tầng lớp nhân dân nhận thức sâu sắc về mục đích, ý nghĩa, giá trị to lớn của việc thực hiện chính sách xã hội đối với thương binh, liệt sĩ và người có công với cách mạng.
Việc tuyên truyền cần đổi mới về nội dung và hình thức thể hiện như thông qua các chương trình nghệ thuật, các hoạt động văn hóa, văn nghệ, các cuộc thi viết, vẽ, nhiếp ảnh, triển lãm nghệ thuật, sáng tác nghệ thuật…Thông qua các hoạt động tưởng nhớ, tri ân, quan tâm đến những anh hùng, liệt sĩ, thương, bệnh binh, gia đình chính sách để khơi dậy lòng yêu nước, tinh thần đại đoàn kết dân tộc, ý thức trách nhiệm cá nhân với lịch sử và khát vọng cống hiến của tuổi trẻ cho Tổ quốc, non sông.
Hai là, tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện chính sách ưu đãi đối với thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công, nâng mức trợ cấp phù hợp với điều kiện kinh tế đất nước nhằm bảo đảm người có công và gia đình liệt sĩ có mức sống từ trung bình khá trở lên trong địa bàn cư trú. Chính sách ưu đãi với người có công phải được thực hiện đồng bộ với các chính sách xã hội khác theo hướng hài hòa, hợp lý, bảo đảm an sinh xã hội, với mục tiêu không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho thân nhân và các gia đình cách mạng. Quan tâm hơn nữa đến các gia đình người có công có hoàn cảnh khó khăn, người có công hiện đang sống cô đơn, không nơi nương tựa, các gia đình người có công vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa…
Ba là, giải quyết tốt những vấn đề tồn đọng, những khó khăn, vướng mắc liên quan đến chính sách với người có công, bảo đảm khách quan, công bằng, minh bạch. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số vào quản lý dữ liệu thông tin, hình ảnh, kỷ vật về các anh hùng, liệt sĩ… Đồng thời, lan tỏa hơn nữa những thông điệp nhân văn, những chính sách của Đảng và Nhà nước ta đối với thương binh, liệt sĩ qua nhiều phương tiện truyền thông khác nhau, đặc biệt là trên môi trường số.
Tiếp tục bố trí nguồn vốn cần thiết để tu bổ, tôn tạo nghĩa trang và các công trình ghi nhớ công lao của các anh hùng, liệt sĩ. Xây dựng và chỉnh trang không gian, cảnh quan nghĩa trang liệt sĩ bảo đảm khang trang, sạch đẹp, thể hiện sự thiêng liêng, tôn kính để nơi đây trở thành “địa chỉ đỏ” giáo dục truyền thống lịch sử, cách mạng cho lớp lớp thế hệ mai sau.
Bên cạnh nguồn vốn nhà nước, cần thực hiện tốt chính sách xã hội hóa, huy động sự tham gia, đóng góp của các cá nhân, tổ chức, cộng đồng doanh nghiệp trong việc thực hiện tốt chính sách “Đền ơn, đáp nghĩa” cũng như xây dựng những công trình thiết thực để tưởng nhớ, tri ân những người đã cống hiến, hy sinh vì nền độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân./.
Quỳnh Vũ
Ảnh: Internet
[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật, H, 2011, t. 5, tr. 579.
[2] Tư tưởng nhân văn cao đẹp của Chủ tịch Hồ Chí Minh với thương binh, gia đình liệt sĩ, đăng tải trên trang web https://hochiminh.vn/tu-tuong-dao-duc-ho-chi-minh/nghien-cuu-tu-tuong-dao-duc-ho-chi-minh/tu-tuong-nhan-van-cao-dep-cua-chu-tich-ho-chi-minh-voi-thuong-binh-gia-dinh-liet-si-1488.
[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tlđd, t. 5, tr. 579.
[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tlđd, t. 12, tr. 401.
[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tlđd, t. 5, tr. 204.
[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tlđd, t. 4, tr. 486.
[7] Hồ Chí Minh với thương binh, bệnh binh và gia đình liệt sĩ, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1987.
[8] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2006, t. 47, tr. 558.
[9] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 148 - 149.
[10] Chăm lo đời sống thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, người có công theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đăng tải trên trang web https://sotaichinh.haugiang.gov.vn/xem-chi-tiet/-/tin-tuc/Cham-lo-oi-song-thuong-binh--benh-binh--gia-inh-liet-si--nguoi-co-cong-theo-tu-tuong-Ho-Chi-Minh92889.
[11] Thực hiện tốt chính sách với người có công với cách mạng, góp phần bảo đảm an sinh xã hội, phát triển bền vững đất nước, đăng tải trên trang web: Http://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/van_hoa_xa_hoi/-/2018/827437/thuc-hien-tot-chinh-sach-voi-nguoi-co-cong-voi-cach-mang%2C-gop-phan-bao-dam-an-sinh-xa-hoi%2C-phat-trien-ben-vung-dat-nuoc.aspx.