Chỉ 09 ngày sau cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám thành công, Bộ Tư pháp đã được thành lập và là một trong mười ba cơ quan của Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ cộng hòa (28/8/1945). Trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” của nền độc lập vừa mới giành được, Bộ Tư pháp đã cùng với chính quyền nhân dân non trẻ giải quyết những khó khăn bộn bề của đất nước. Đây là sự kiện lịch sử quan trọng, mở đầu hành trình xây dựng và phát triển ngành Tư pháp.
Trải qua gần 80 năm đồng hành cùng đất nước, vị trí, vai trò quan trọng của Bộ, ngành Tư pháp ngày càng được khẳng định. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự điều hành của Chính phủ, sự phối hợp chặt chẽ của cấp ủy, chính quyền các cấp và sự ủng hộ, tin cậy của Nhân dân, công tác tư pháp nói chung, vai trò của Bộ, ngành Tư pháp nói riêng ngày càng được củng cố, tăng cường và tiếp tục phát triển mạnh mẽ trong kỷ nguyên mới của dân tộc Việt Nam.
1. Vai trò của Bộ, ngành Tư pháp từ năm 1945 đến nay
Trong suốt hành trình 80 năm xây dựng và phát triển, Bộ, ngành Tư pháp luôn thể hiện được vai trò quan trọng trong tham mưu cho Đảng, Nhà nước ban hành các quyết sách trọng đại, giúp đất nước ổn định, phát triển. Điều này được thể hiện qua các giai đoạn như sau:
1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1960
Ngày 30/11/1945[1], Bộ trưởng Bộ Tư pháp Vũ Trọng Khánh đã ký Nghị định số 37-TP đặt cơ sở đầu tiên cho việc tổ chức Bộ Tư pháp. Theo Nghị định số 37-TP, Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm soạn thảo và tổ chức thi hành các đạo luật về quyền tự do, dân chủ của cá nhân, về dân sự, thương sự, hình sự và thủ tục tố tụng, tổ chức và quản trị các Tòa án, việc truy tố tội phạm, tư pháp công an, thi hành các án phạt, quản trị các nhà lao và giáo dục tù nhân, quản lý các viên chức Tòa án, viên chức ngạch tư pháp, luật sư, đại tụng viên, thừa phát lại, hỗ giá viên, phụ trách công việc quốc tịch, thực hiện các hiệp định tương trợ tư pháp và ủy thác tư pháp với nước ngoài[2]. Nghị định số 37-TP đã đặt nền móng xây dựng, phát triển nền tư pháp dân chủ nhân dân và là cơ sở pháp lý về tổ chức và hoạt động của Bộ Tư pháp sau này.
Ngày 06/01/1946, cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên đã bầu ra Quốc hội. Tại phiên họp đầu tiên ngày 02/3/1946, Quốc hội đã bầu ra Chính phủ Liên hiệp kháng chiến (thay cho Chính phủ lâm thời) và bầu ông Vũ Đình Hòe làm Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Bộ Tư pháp tiếp tục giữ nguyên cơ cấu tổ chức theo Nghị định số 37-TP và tiếp tục được kiện toàn trong các năm tiếp theo.
Ngày 11/02/1960, Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định số 01-CP quy định chức năng, nhiệm vụ của Bộ Tư pháp. Theo đó, Bộ Tư pháp có chức năng, nhiệm vụ: (i) Nghiên cứu những quy định về hệ thống tổ chức và thẩm quyền của Tòa án nhân dân (TAND) địa phương các cấp, của tư pháp ở xã; hướng dẫn việc thực hiện các quy định này; (ii) Nghiên cứu dự thảo các bộ luật, đạo luật tổng hợp về dân sự, hình sự và thủ tục tố tụng; (iii) Chỉ đạo công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật nhằm mục đích giáo dục cho nhân dân ý thức tuân theo pháp luật; (iv) Nghiên cứu quy định về hội thẩm nhân dân, về tổ chức luật sư, bào chữa viên, công chứng viên, giám định viên và quản lý các tổ chức ấy; (v) Đào tạo và giáo dục cán bộ Tòa án và cán bộ tư pháp; (vi) Quản lý cán bộ và biên chế của ngành Tư pháp; (vii) Hướng dẫn, kiểm tra và tổng kết công tác của ngành Tư pháp.
Trong giai đoạn này, mặc dù đất nước mới giành độc lập và thực hiện cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp, mới thiết lập hòa bình ở miền Bắc, nhưng dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, Chính phủ, đặc biệt là sự quan tâm chỉ đạo trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ, ngành Tư pháp đã đoàn kết, tập trung nỗ lực thực hiện tốt, thành công các nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước giao trong xây dựng nền móng cho hệ thống pháp luật mới, tổ chức nền tư pháp Nhân dân theo những nguyên tắc dân chủ, tiến bộ, thiết lập tổ chức bộ máy các cơ quan tư pháp, Tòa án, các cơ quan bổ trợ tư pháp, góp phần quan trọng để đất nước thực hiện thành công quản lý xã hội bằng pháp luật, thực hiện thành công cuộc kháng chiến gian khổ, trường kỳ của dân tộc; thiết lập đường lối xây dựng kinh tế trong những năm đầu lập lại hòa bình ở miền Bắc[3]. Điều này được thể hiện cụ thể là Bộ Tư pháp: (i) Đã soạn thảo và trình Chủ tịch Hồ Chí Minh ký các sắc lệnh để tổ chức, quản lý xã hội bằng pháp luật[4]. Đặc biệt, ngày 09/11/1946, Quốc hội đã thông qua bản Hiến pháp đầu tiên có dấu ấn và sự đóng góp đặc biệt quan trọng của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Vũ Trọng Khánh[5]; (ii) Đã xây dựng hệ thống cơ quan tư pháp địa phương ở 03 miền (Sở Tư pháp Bắc Bộ, Sở Tư pháp Trung Bộ và Sở Tư pháp Nam Bộ) theo Sắc lệnh số 63/SL ngày 22/11/1945. Đồng thời, thiết lập hệ thống các viên chức, cơ quan công tố nằm trong hệ thống Tòa án các cấp và do Bộ Tư pháp trực tiếp quản lý về tổ chức và hoạt động[6]; (iii) Đã thực hiện thành công cuộc “Cải cách tư pháp năm 1950” trên cả 03 phương diện: Lập pháp - Tố tụng - Tổ chức ngành Tư pháp, nhằm xây dựng một hệ thống pháp luật tương đối toàn diện, thể hiện rõ bản chất của chế độ “Tư pháp Nhân dân”, đảm bảo các quyền tự do, dân chủ của mọi công dân, thực hiện chính quyền của Nhân dân[7].
1.2. Giai đoạn từ năm 1960 đến năm 1981
Đây là giai đoạn nước ta xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Trên cơ sở Hiến pháp năm 1959, Luật Tổ chức TAND năm 1960 và Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) năm 1960 đã hình thành hệ thống TAND và VKSND độc lập với Chính phủ.
Trong giai đoạn này, theo Luật Tổ chức Chính phủ năm 1960, trong thành phần Chính phủ không có Bộ Tư pháp. Các nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về quản lý tổ chức và hoạt động của các cơ quan điều tra (tư pháp công an), truy tố (Viện công tố) và xét xử (Tòa án), thi hành án được chuyển giao cho Bộ Công an, VKSND tối cao, TAND tối cao và một phần cho chính quyền địa phương. Từ năm 1960 đến năm 1972, không có cơ quan nào giúp Chính phủ quản lý thống nhất, toàn diện công tác xây dựng, thi hành pháp luật và công việc về tư pháp trên phạm vi cả nước.
Ngày 09/10/1972, Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định số 190-CP quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Ủy ban Pháp chế thuộc Hội đồng Chính phủ. Ủy ban Pháp chế có chức năng, nhiệm vụ xây dựng pháp luật, thi hành pháp luật, xây dựng ngành pháp chế, công tác hành chính tư pháp, đào tạo cán bộ pháp lý, nghiên cứu khoa học pháp lý và tổng kết công tác pháp chế. Đồng thời, hệ thống tổ chức pháp chế ở các bộ, cơ quan ngang bộ, các địa phương cũng được hình thành và thực hiện hai chức năng chủ yếu: (i) Quản lý thống nhất công tác xây dựng và ban hành pháp luật; hướng dẫn và theo dõi thi hành pháp luật; xây dựng cơ quan pháp chế cấp dưới; bồi dưỡng cán bộ pháp chế, quản lý hành chính tư pháp; (ii) Làm tư vấn pháp luật cho Ủy ban hành chính về các vấn đề liên quan đến pháp chế. Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, việc thành lập Ban Pháp chế được thực hiện ở hầu hết các tỉnh phía Nam như Thành phố Hồ Chí Minh, Quảng Nam - Đà Nẵng, Đồng Nai, Nghĩa Bình, Phú Khánh, Hậu Giang… Như vậy, chức năng của Ủy ban Pháp chế được quy định theo Nghị định số 190/CP về cơ bản giống chức năng của Bộ Tư pháp trong thời kỳ trước về công tác xây dựng, thi hành pháp luật.
Trong giai đoạn này, Ủy ban Pháp chế của Chính phủ đã thực hiện thành công và phát huy mạnh mẽ vai trò, sứ mệnh trong việc giúp Chính phủ quản lý thống nhất công tác pháp chế, xây dựng hệ thống tổ chức pháp chế ở các ngành, các cấp. Có thể nói, trong giai đoạn này, công tác pháp chế đã được triển khai một cách toàn diện, bài bản, có trọng tâm, trọng điểm, ý thức hoạt động của toàn Ngành được nâng cao; công tác xây dựng, thi hành pháp luật được kế hoạch hóa, đi vào nền nếp; công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật ngày càng được mở rộng và nâng cao chất lượng; công tác luật sư được chấn chỉnh và tăng cường; bước đầu xây dựng công tác công chứng và công tác giám định tư pháp. Cụ thể, Ủy ban Pháp chế đã: (i) Nghiên cứu, xây dựng chương trình làm luật; xây dựng, trình các cơ quan có thẩm quyền ban hành hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tính thống nhất theo chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, kế hoạch của Nhà nước, nhằm thúc đẩy kinh tế phát triển, bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân như Pháp lệnh Xét khiếu tố, Luật Ruộng đất, Điều lệ Hợp đồng kinh tế; Chủ nhiệm Ủy ban Pháp chế là Trưởng ban dự thảo Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự; (ii) Thực hiện nhiệm vụ rà soát, hệ thống hóa, pháp điển hóa hệ thống pháp luật của cả hai miền thành hệ thống pháp luật dùng chung cho cả nước; (iii) Thực hiện tuyên truyền, giáo dục pháp luật, quản lý một số tổ chức bổ trợ tư pháp và đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ pháp luật. Chính vì vậy, hoạt động của Ủy ban Pháp chế và hệ thống pháp chế trên toàn quốc đã góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả quản lý nhà nước, quản lý kinh tế và quản lý xã hội bằng pháp luật; đặc biệt, đã góp phần quan trọng vào việc xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước và quản lý xã hội bằng pháp luật thống nhất ở cả hai miền.
1.3. Giai đoạn từ năm 1981 đến nay
Đây là giai đoạn Việt Nam thực hiện đổi mới, mở cửa, hội nhập quốc tế và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Ngày 22/11/1981, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định số 143/HĐBT về thành lập Bộ Tư pháp. Theo đó, Bộ Tư pháp có các chức năng: (i) Xây dựng pháp luật; (ii) Tuyên truyền, giáo dục pháp luật; (iii) Quản lý về mặt tổ chức các TAND địa phương; (iv) Quản lý nhà nước các công tác tư pháp khác (luật sư, công chứng, thi hành án dân sự...); (v) Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ pháp luật trong cả nước.
Hệ thống tổ chức tư pháp ở địa phương có Sở Tư pháp ở cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cấp tương đương; Ban Tư pháp (sau đó chuyển thành Phòng) ở cấp quận, huyện, thị xã và các đơn vị hành chính tương đương, Ban Tư pháp ở cấp xã, phường và các đơn vị hành chính tương đương. Đồng thời, theo Nghị định số 30/CP ngày 02/6/1993 của Chính phủ, hệ thống cơ quan thi hành án dân sự đã được thành lập, trong đó Cục Quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp, Phòng Thi hành án thuộc Sở Tư pháp cấp tỉnh, Đội Thi hành án thuộc Phòng Tư pháp cấp huyện.
Thực hiện chủ trương cải cách tư pháp theo Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” (Nghị quyết số 08-NQ/TW), nhiệm vụ “quản lý TAND địa phương về mặt tổ chức” được chuyển giao cho TAND tối cao thực hiện từ năm 2002.
Từ khi được tái thành lập (1981), đến nay, Chính phủ đã ban hành 07 nghị định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp để phù hợp với từng giai đoạn phát triển, đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Với 38 nhiệm vụ được quy định tại Nghị định số 98/2022/NĐ-CP ngày 29/11/2022, Bộ Tư pháp đã khẳng định được vị trí pháp lý là cơ quan chuyên môn của Chính phủ, có chức năng quản lý nhà nước về một số lĩnh vực quan trọng: Xây dựng pháp luật; tổ chức thi hành pháp luật; bổ trợ tư pháp; hành chính tư pháp; thi hành án dân sự, thi hành án hành chính; tư pháp quốc tế và hợp tác quốc tế về pháp luật, tư pháp; công tác pháp chế; quản lý nhà nước các dịch vụ sự nghiệp công trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ.
Trong giai đoạn từ 1981 đến nay, với tinh thần trách nhiệm, đổi mới, tận tâm, cống hiến của các thế hệ Lãnh đạo và cán bộ, công chức, viên chức qua các thời kỳ, Bộ, ngành Tư pháp đã hoàn thành xuất sắc chức trách, nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước giao. Đặc biệt, Bộ, ngành Tư pháp đã xây dựng, hình thành hệ thống pháp luật tương đối đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, dễ tiếp cận, vừa là công cụ để Nhà nước quản lý xã hội, vừa là phương tiện để bảo đảm quyền con người, quyền công dân, tạo nền tảng pháp lý để phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh quốc gia, phục vụ hội nhập quốc tế. Đồng thời, Bộ, ngành Tư pháp đã có những đóng góp tích cực, góp phần thực hiện thành công, thắng lợi chủ trương, chính sách của Đảng về đổi mới, mở cửa hội nhập quốc tế, xây dựng, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp; góp phần cải thiện môi trường kinh doanh, ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát; nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế; đẩy mạnh cải cách hành chính, phòng, chống tham nhũng, lãng phí; mở rộng hội nhập và nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Điều này được thể hiện ở một số lĩnh vực quan trọng sau:
Thứ nhất, Bộ, ngành Tư pháp đã tham mưu và trực tiếp, tham gia xây dựng thành công nhiều Nghị quyết của Đảng góp phần quan trọng vào việc phát triển đất nước, như Chỉ thị số 57/CT-TW ngày 08/8/1995 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa VII về hợp tác với nước ngoài về pháp luật và cải cách hành chính; Nghị quyết số 08-NQ/TW; Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020; Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020; đặc biệt, Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới (Nghị quyết số 27-NQ/TW).
Thứ hai, trong công tác xây dựng pháp luật, Bộ Tư pháp đã tham mưu giúp Chính phủ, Quốc hội về công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, có được một hệ thống pháp luật tương đối hoàn chỉnh, phục vụ đắc lực cho công cuộc đổi mới, xây dựng, phát triển nền kinh tế thị trường, hội nhập, định hướng xã hội chủ nghĩa và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong đó trực tiếp tham mưu xây dựng một số đạo luật quan trọng mang tính chất “rường cột” như các bản Hiến pháp năm 1992, 2013; các Bộ luật Dân sự năm 1995, 2005, 2015; các Bộ luật Hình sự năm 1985, 1999, 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và các luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự; các Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959, 1986, 2000 và 2014; Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2020); các Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996, 2004, 2008, 2015 và sửa đổi, bổ sung năm 2020; Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012… và nhiều đạo luật, văn bản quy phạm pháp luật quan trọng khác. Đồng thời, Bộ Tư pháp đã thực hiện tốt chức năng tham mưu, giúp Chính phủ thẩm định các đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh, nghị quyết, các dự thảo luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội do Chính phủ trình, các dự thảo nghị định, quyết định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Hầu hết các ý kiến thẩm định của Bộ Tư pháp đều được cơ quan chủ trì, soạn thảo, cơ quan thẩm tra, ban hành ghi nhận, đánh giá cao và được xem là ý kiến quan trọng để xem xét quyết định.
Thứ ba, trong công tác tổ chức thi hành pháp luật, Bộ Tư pháp là cơ quan đầu mối giúp Chính phủ thực hiện thành công công tác theo dõi thi hành pháp luật; kiểm tra, rà soát và đề xuất xử lý các văn bản quy phạm pháp luật ban hành không đúng, góp phần bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật; hệ thống hóa, pháp điển hóa hệ thống văn bản quy phạm pháp luật góp phần bảo đảm tính công khai, minh bạch, dễ tra cứu; thực hiện tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đưa các văn bản quy phạm pháp luật đi vào thực tế đời sống xã hội, góp phần quan trọng nâng cao ý thức, tính thượng tôn pháp luật, phát triển đất nước, xây dựng xã hội văn minh, giàu đẹp.
Thứ tư, trong công tác thi hành án dân sự, thi hành án hành chính, Bộ, ngành Tư pháp đã xây dựng, phát triển được hệ thống cơ quan, đội ngũ công chức làm công tác thi hành án dân sự thống nhất từ trung ương đến địa phương nhằm đưa các bản án, quyết định của Tòa án, phán quyết của trọng tài... được thi hành trên thực tế, góp phần quan trọng vào việc bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân và lợi ích của Nhà nước, giữ vững an ninh chính trị - xã hội, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước, phù hợp với thông lệ quốc tế.
Thứ năm, Bộ, ngành Tư pháp đã xây dựng, phát triển được hệ thống các cơ quan, tổ chức hành nghề luật, đội ngũ công chức, viên chức, các chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp từ Trung ương đến địa phương và thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, tư pháp quốc tế, hợp tác quốc tế về pháp luật, tư pháp, góp phần quan trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả quản lý nhà nước; tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức trong việc thực hiện các quyền của mình và mang lại công bằng, bình đẳng trước pháp luật; nâng cao uy tín, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
2. Định hướng phát triển Bộ, ngành Tư pháp trong kỷ nguyên mới
Trong suốt 80 năm xây dựng, phát triển, Bộ, ngành Tư pháp luôn được Đảng, Nhà nước tin tưởng, giao trọng trách thực hiện các nhiệm vụ xây dựng, hoàn thiện thể chế, pháp luật, thi hành pháp luật; quản lý nhà nước về công tác bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, thi hành án dân sự, hợp tác quốc tế về lĩnh vực pháp luật, tư pháp và đã thực hiện thành công những trọng trách được giao, góp phần quan trọng trong công cuộc đấu tranh thống nhất, bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước.
Tuy nhiên, với yêu cầu, đòi hỏi của bối cảnh mới, Bộ, ngành Tư pháp đang đối mặt với nhiều thách thức trong thời kỳ hội nhập quốc tế sâu, rộng và chuyển đổi số, đặc biệt là yêu cầu đổi mới tư duy trong xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật. Triển khai thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW, Thông báo số 108-TB/VPTW ngày 18/11/2024 của Văn phòng Trung ương Đảng về kết luận của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm tại buổi làm việc với Ban Cán sự đảng Bộ Tư pháp, trong Chương trình làm việc của Bộ Chính trị, Ban Bí thư năm 2025, Bộ Tư pháp được giao nhiệm vụ xây dựng, trình Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị về “Đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới”. Đây là cơ hội để Bộ Tư pháp đề xuất những giải pháp chiến lược nhằm tiếp tục kế thừa, phát huy truyền thống, phát triển Bộ, Ngành. Trong thời gian tới, để định vị mục tiêu, nhiệm vụ hướng tới Đại hội XIV của Đảng, thời điểm bắt đầu kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, Bộ, ngành Tư pháp cần tập trung vào một số định hướng phát triển như sau:
2.1. Trong công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế pháp luật
Bộ, ngành Tư pháp cần tiếp tục phát huy truyền thống, kết quả đã đạt được, tiếp tục đóng vai trò nòng cốt trong xây dựng, hoàn thiện hệ thống thể chế, pháp luật trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Xây dựng, trình Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị về “Đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới”.
Việc tham mưu xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, trong đó công tác lập đề nghị của Chính phủ về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh phải bảo đảm kịp thời thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng, các nghị quyết, chỉ thị, kết luận, văn bản chỉ đạo của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ liên quan đến các lĩnh vực công tác của Bộ, ngành Tư pháp, đặc biệt là công tác xây dựng và thi hành pháp luật theo tinh thần chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm tại buổi làm việc với Ban Cán sự đảng Bộ Tư pháp[8]. Đồng thời, bám sát cơ sở thực tiễn phát triển của đất nước để xây dựng hành lang pháp lý cho những vấn đề mới, xu hướng mới, phù hợp với bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, chuyển đổi số và trí tuệ nhân tạo, phát triển bền vững, toàn diện.
Tập trung nguồn lực tham mưu giúp Chính phủ xây dựng, trình Quốc hội dự án Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (sửa đổi) để kịp thời thể chế hóa chủ trương của Đảng về đổi mới quy trình xây dựng pháp luật, phân định rõ khâu xây dựng chính sách và quy phạm hóa chính sách, phát huy cao độ tính Đảng trong xây dựng pháp luật, chuyển đổi tư duy trong xây dựng pháp luật; xây dựng cơ chế hiệu quả để tiếp thu, giải trình ý kiến góp ý của đối tượng chịu tác động, khi xây dựng chính sách không đẩy khó khăn cho người dân, doanh nghiệp. Quá trình lấy ý kiến Nhân dân cần bảo đảm tính dân chủ, công khai, minh bạch, có trọng tâm, trọng điểm, tập trung vào những vấn đề, quy định gắn với quyền, lợi ích của người dân, doanh nghiệp, tăng cường trách nhiệm của cơ quan nhà nước trong việc tiếp thu, giải trình các ý kiến góp ý.
Thực hiện tốt vai trò thẩm định và đánh giá tác động chính sách, tuyệt đối không để xảy ra lợi ích nhóm, tham nhũng chính sách, lãng phí nguồn lực, lãng phí cơ hội từ công tác xây dựng pháp luật, bảo đảm hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, công khai, minh bạch, ổn định, khả thi, dễ tiếp cận, bảo đảm bao quát và điều chỉnh các quan hệ xã hội, nhất là các vấn đề mới phát sinh; lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, tổ chức, doanh nghiệp làm trung tâm, đối tượng phục vụ, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, khơi thông mọi nguồn lực để phát triển đất nước.
2.2. Trong công tác tổ chức thi hành pháp luật
Cùng với công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, Bộ, ngành Tư pháp cần đóng vai trò quan trọng trong công tác tổ chức thi hành pháp luật, giúp Chính phủ thống nhất quản lý về công tác tổ chức thi hành pháp luật.
Trong thời gian tới, Bộ Tư pháp cần tiếp tục chủ trì tham mưu, giúp Chính phủ thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tổ chức thi hành pháp luật; tiếp tục tham mưu tổ chức các hội nghị của Chính phủ với Ủy ban Thường vụ Quốc hội về triển khai thi hành luật, nghị quyết được Quốc hội thông qua; tham mưu, giúp Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo, đôn đốc các bộ, ngành xây dựng, ban hành hoặc trình cơ quan có thẩm quyền ban hành kịp thời các văn bản quy định chi tiết luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, khắc phục triệt để tình trạng nợ ban hành văn bản chi tiết, tránh tạo “khoảng trống” pháp lý; hoàn thiện quy định về giải thích, hướng dẫn áp dụng pháp luật; nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, rà soát, xử lý văn bản trái pháp luật; tiếp nhận phản ánh, phát hiện và kịp thời xử lý các “vướng mắc”, “điểm nghẽn”, “nút thắt” của thể chế, pháp luật. Đổi mới công tác phổ biến, giáo dục pháp luật; xây dựng văn hóa tuân thủ pháp luật, ý thức thượng tôn pháp luật, sống, làm việc theo Hiến pháp và pháp luật của người dân, doanh nghiệp.
2.3. Trong công tác quản lý nhà nước về lĩnh vực hành chính tư pháp
Bộ, ngành Tư pháp cần bảo đảm hài hòa giữa quản lý nhà nước và cung cấp dịch vụ công; tiếp tục đơn giản hóa thủ tục hành chính, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng Chính phủ điện tử, Chính phủ số gắn với triển khai hiệu quả Đề án số 06 và cung cấp dịch vụ công trực tuyến toàn trình hướng tới sự chuyên nghiệp, hiện đại, công khai, minh bạch để phục vụ người dân, doanh nghiệp hiệu quả, góp phần bảo đảm các quyền dân sự của công dân.
2.4. Trong công tác quản lý nhà nước về lĩnh vực bổ trợ tư pháp, trợ giúp pháp lý
Bộ, ngành Tư pháp cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện thể chế, chính sách pháp luật về bổ trợ tư pháp; thực hiện và phát huy hiệu quả hoạt động hỗ trợ, trợ giúp pháp lý cho người dân, doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức; xây dựng đội ngũ bổ trợ tư pháp có bản lĩnh, đạo đức nghề nghiệp, hoạt động chuyên nghiệp; tiếp tục thực hiện xã hội hóa, tạo điều kiện, cơ chế khuyến khích, huy động nguồn lực xã hội, các cá nhân, tổ chức tham gia vào hoạt động bổ trợ tư pháp; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về chủ trương xã hội hóa cũng như vị trí, vai trò của hoạt động bổ trợ tư pháp trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; tăng cường, nâng cao chất lượng, hiệu quả quản lý nhà nước, chú trọng công tác kiểm tra, thanh tra chuyên ngành, kịp thời xử lý nghiêm các vi phạm; đẩy mạnh cải cách hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý; phát huy vai trò tự quản của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp trong công tác quản lý hoạt động bổ trợ tư pháp. Đồng thời, Bộ, ngành Tư pháp cần xây dựng chiến lược, định hướng phát triển phù hợp với điều kiện phát triển thực tế của từng lĩnh vực, từng giai đoạn bảo đảm nâng cao trách nhiệm, tính chuyên nghiệp, kỹ năng nghiệp vụ của cán bộ, công chức quản lý hoạt động bổ trợ tư pháp cũng như đội ngũ nhân lực thực hiện nhiệm vụ bổ trợ tư pháp.
2.5. Trong công tác thi hành án dân sự và thi hành án hành chính
Bộ, ngành Tư pháp cần nghiên cứu sắp xếp, tổ chức hệ thống cơ quan thi hành án dân sự tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả đáp yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới. Tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện thể chế về thi hành án dân sự, thi hành án hành chính theo hướng chú trọng chất lượng, đơn giản hóa trình tự, thủ tục, rút ngắn thời gian tổ chức thi hành án, giảm thiểu chi phí; bảo đảm các quyết định hành chính, các bản án hành chính được thực thi đúng đắn, nhanh chóng và không gây thiệt hại cho các bên liên quan. Quy định rõ hơn thẩm quyền, trách nhiệm của đương sự, các cơ quan trong việc tổ chức thi hành án, đặc biệt là thẩm quyền của Tòa án trong việc ra một số quyết định về thi hành án, tạo cơ sở pháp lý để đẩy mạnh xã hội hóa một số hoạt động thi hành án dân sự. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên trong thi hành án dân sự, thi hành án hành chính; phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong thi hành án dân sự, thi hành án hành chính. Tăng cường công tác giám sát, kiểm tra từ các cơ quan có thẩm quyền để bảo đảm việc thi hành án được thực hiện đúng quy định pháp luật.
2.6. Trong công tác xây dựng ngành và phát triển nguồn nhân lực
Trên cơ sở tổng kết Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, Bộ, ngành Tư pháp đã đánh giá, đề xuất với Trung ương về định hướng cơ cấu tổ chức bộ máy mới của Bộ Tư pháp bảo đảm tinh gọn, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả và rà soát, điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ và giảm số lượng phòng, ban bên trong của các đơn vị trực thuộc theo đúng yêu cầu Nghị quyết số 18-NQ/TW và chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm, Ban chỉ đạo Trung ương và Ban chỉ đạo của Chính phủ về tổng kết việc thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW”[9]. Vì vậy, trong thời gian tới, Bộ, ngành Tư pháp cần tập trung sắp xếp, cơ cấu lại đội ngũ công chức, viên chức theo cơ cấu tổ chức mới, yêu cầu vị trí việc làm của Bộ, Ngành và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tư pháp các cấp đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong kỷ nguyên mới, nhất là phát triển nguồn nhân lực làm công tác tham mưu xây dựng pháp luật có bản lĩnh chính trị vững vàng, tư cách đạo đức tốt, thành thạo chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp theo kết luận của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm tại buổi làm việc với Ban Cán sự đảng Bộ Tư pháp[10]. Xây dựng cơ chế, thực hiện chính sách thu hút, trọng dụng người có tài năng vào làm việc trong Ngành và xây dựng văn hóa tuân thủ pháp luật trong cán bộ, đảng viên, tạo sự lan tỏa tinh thần thượng tôn pháp luật tới người dân, tổ chức, doanh nghiệp.
2.7. Trong công tác hợp tác quốc tế về pháp luật và tư pháp
Trong thời gian qua, hoạt động hợp tác quốc tế của Bộ, ngành Tư pháp đã đạt được những thành công đáng ghi nhận. Bộ Tư pháp đã ký kết hơn 60 thỏa thuận hợp tác với các quốc gia trên thế giới và tham gia nhiều tổ chức quốc tế về pháp luật, tư pháp như Hội nghị La Hay về tư pháp quốc tế (HccH), Tổ chức Luật Phát triển quốc tế (IDLO)... góp phần hỗ trợ tích cực cho công tác chuyên môn của Bộ, ngành Tư pháp và nâng cao hình ảnh, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Trong thời gian tới, trước bối cảnh đất nước ngày càng hội nhập sâu, rộng, công tác hợp tác quốc tế của Bộ, ngành Tư pháp cần tiếp tục đẩy mạnh và mở rộng hợp tác quốc tế trên bình diện toàn cầu, khu vực và song phương; đẩy mạnh đàm phán, ký kết, thực hiện hiệu quả các thỏa thuận về lĩnh vực pháp luật và tư pháp trên tinh thần thiện chí, tôn trọng lẫn nhau. Đồng thời, mở rộng hợp tác quốc tế đa phương, khẳng định vai trò thành viên tích cực trong các tổ chức quốc tế khu vực cũng toàn cầu mà Việt Nam đã tham gia như ASEAN, APEC, HccH, IDLO... Chú trọng nâng cao hiệu quả công tác hợp tác quốc tế về pháp luật và tư pháp, chủ động tham gia vào quá trình hình thành quy tắc, luật pháp quốc tế, vừa bảo đảm tối đa lợi ích của quốc gia, dân tộc, vừa không ngừng nâng cao hình ảnh của đất nói chung và của Bộ, ngành Tư pháp nói riêng trước cộng đồng quốc tế.
Trong hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật, tư pháp, Bộ, ngành Tư pháp cần bám sát các chủ trương, định hướng, yêu cầu của Đảng và Nhà nước về công tác đối ngoại nói chung và hợp tác quốc tế về pháp luật nói riêng; tiếp tục tăng cường, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực pháp luật, tư pháp; cảnh giác với các thế lực thù địch, tránh tự diễn biến, tự chuyển hóa, bảo đảm không bị tác động, can thiệp trong xây dựng pháp luật.
2.8. Trong công tác pháp luật quốc tế
Hội nhập quốc tế về pháp luật đang từng bước được đẩy mạnh, khẳng định được vai trò, vị thế của Bộ, ngành Tư pháp trong quá trình hội nhập của đất nước và trên một số diễn đàn pháp luật và tư pháp quốc tế. Tuy nhiên, đứng trước yêu cầu phát triển của đất nước trong bối cảnh mới, nhất là sự mong đợi của Đảng, Nhà nước được thể hiện rõ nét qua chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm: “Nâng cao vai trò của Bộ, ngành Tư pháp trong tham gia xây dựng thể chế và pháp luật quốc tế, nâng cao trách nhiệm phòng ngừa, giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế, xử lý hiệu quả các vấn đề pháp lý phát sinh trong quá trình hội nhập quốc tế, kịp thời bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của cá nhân, tổ chức, cơ quan nhà nước Việt Nam” thì trong thời gian tới, Bộ, ngành Tư pháp tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 50-NQ/TW ngày 20/8/2019 của Bộ Chính trị về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030; Chỉ thị số 27/CT-TTg ngày 10/7/2020 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác quản lý nhà nước về đầu tư và phòng ngừa việc phát sinh các vụ việc tranh chấp đầu tư quốc tế; Quyết định số 14/2020/QĐ-TTg ngày 08/4/2020 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế phối hợp giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế; phối hợp với các bộ, ngành liên quan thực hiện tốt nhiệm vụ giúp Chính phủ xử lý các vấn đề pháp lý phát sinh trong hội nhập quốc tế, tham gia đàm phán, ký kết, thực hiện điều ước, thỏa thuận, cam kết quốc tế. Hoàn thành việc xây dựng Luật Tương trợ tư pháp về dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành, bảo đảm tương thích với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, đáp ứng yêu cầu thực tiễn và sự phát triển của kinh tế - xã hội.
3. Một số giải pháp thực hiện
Để đạt được các mục tiêu, định hướng phát triển như trên, Bộ, ngành Tư pháp cần thực hiện đồng bộ các giải pháp, trong đó tập trung vào một số giải pháp cơ bản sau:
Thứ nhất, quán triệt, nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của Bộ, ngành Tư pháp về vị trí, vai trò và trách nhiệm của Bộ, ngành Tư pháp trước yêu cầu, đòi hỏi phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới. Tiếp tục đổi mới, quyết liệt trong chỉ đạo, điều hành; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước; siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính, đề cao trách nhiệm người đứng đầu; tăng cường công tác cải cách hành chính; thực hiện nghiêm các chương trình, kế hoạch công tác đã đề ra, nhất là những nhiệm vụ liên quan trực tiếp đến phát triển kinh tế - xã hội năm 2025.
Thứ hai, tập trung kiện toàn tổ chức bộ máy tinh gọn, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả; đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong toàn Ngành, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao gắn với đẩy mạnh nghiên cứu khoa học pháp lý; có cơ chế thu hút nhân lực có kỹ năng nghề nghiệp, trình độ chuyên môn cao về làm việc tại Bộ, ngành Tư pháp. Trước tiên, Bộ, ngành Tư pháp cần tập trung xây dựng đội ngũ, nhóm chuyên gia đầu ngành, có năng lực, trình độ chuyên môn sâu về các lĩnh vực để “dẫn dắt”, tạo động lực, “truyền lửa” và hỗ trợ cho cán bộ, công chức, viên chức trong nghiên cứu cũng như thực hiện các nhiệm vụ của Bộ, ngành Tư pháp.
Thứ ba, chủ động hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ; kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc; điều chỉnh linh hoạt việc triển khai các chương trình, kế hoạch công tác đã đề ra, bảo đảm tính khả thi, phù hợp với điều kiện thực tế nhưng vẫn thực hiện được đầy đủ, hiệu quả các nhiệm vụ được giao.
Thứ tư, tập trung đầu tư nguồn lực để hiện đại hóa môi trường, điều kiện làm việc, đặc biệt đẩy mạnh chuyển đổi số trong các hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp. Cụ thể: (i) Đẩy mạnh thực hiện ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số, sử dụng trí tuệ nhân tạo trong mọi lĩnh vực để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động, giải quyết công việc nói chung và quản lý nhà nước của Bộ, ngành Tư pháp nói riêng, nhất là trong công tác xây dựng pháp luật và thi hành pháp luật; kiểm tra, rà soát văn bản quy phạm pháp luật để kịp thời phát hiện, xử lý mâu thuẫn, chồng chéo trong dự thảo văn bản và trong hệ thống pháp luật; (ii) Xây dựng và phát triển hệ thống phần mềm, hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu điện tử trong các lĩnh vực, bảo đảm sự kết nối và chia sẻ thông tin giữa các cơ sở dữ liệu của các cơ quan, đơn vị từ cấp trung ương tới địa phương để kịp thời phục vụ yêu cầu quản lý nhà nước.
Thứ năm, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, tìm hiểu, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế về các lĩnh vực công tác của Bộ, ngành Tư pháp để áp dụng phù hợp với bối cảnh phát triển của đất nước, nhất là trong công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, pháp luật, tổ chức thi hành pháp luật cũng như quản lý nhà nước về lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, thi hành án dân sự.
Thứ sáu, tăng cường công tác phối hợp với các bộ, ngành, cơ quan và cấp ủy, chính quyền các cấp trong chỉ đạo, điều hành công tác tư pháp từ trung ương đến địa phương; kịp thời báo cáo, tham mưu các giải pháp đổi mới, sáng tạo, hiệu quả, kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền để xin ý kiến chỉ đạo, tháo gỡ những khó khăn, bất cập trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của Bộ, Ngành.
Trên chặng đường 80 năm phụng sự Tổ quốc và Nhân dân, phụng sự lý tưởng của Đảng, ngành Tư pháp Việt Nam tự hào được giao trọng trách cao đẹp và đã khẳng định vai trò quan trọng trong hệ thống chính trị, góp phần bảo đảm công bằng xã hội, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Trong bối cảnh mới, với những cơ hội và thách thức đặt ra, Bộ, ngành Tư pháp cần tiếp tục phát huy những giá trị truyền thống, kết quả thành tích đã đạt được, đổi mới, sáng tạo, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước để khẳng định vị thế của mình, đồng hành cùng dân tộc bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.
2. Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
3. Thông báo số 108-TB/VPTW ngày 18/11/2024 của Văn phòng Trung ương Đảng về Kết luận của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm tại buổi làm việc với Ban Cán sự đảng Bộ Tư pháp.
4.GS.TS. Tô Lâm, https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/phat-bieu-cua-tong-bi-thu-chu-tich-nuoc-to-lam-tai-phien-khai-mac-ky-hop-thu-8-quoc-hoi-khoa-xv-119241021113227895.htm, truy cập ngày 30/11/2024.
5. GS.TS. Tô Lâm, “Phát huy tính Đảng trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, https://baochinhphu.vn/phat-huy-tinh-dang-trong-xay-dung-nha-nuoc-phap-quyen-xa-hoi-chu-nghia-viet-nam-102241019142658209.htm, truy cập ngày 30/11/2024.
6. GS.TS. Tô Lâm, “Sắp xếp tổ chức bộ máy tinh-gọn-mạnh-hiệu năng-hiệu lực-hiệu quả”, https://special.nhandan.vn/sap-xep-to-chuc-bo-may-tinh-gon-manh-hieu-nang-hieu-luc-hieu-qua/index.html,truy cập ngày 30/11/2024.
7. Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Bộ Tư pháp, “Ngành Tư pháp Việt Nam 70 năm xây dựng và phát triển”, Nxb. Tư pháp năm 2015.
8. GS.TS. Võ Khánh Vinh (chủ biên) (2022), “Chiến lược phát triển pháp luật Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
9. Cổng Thông tin điện tử Bộ Tư pháp, https://moj.gov.vn/.
TS. Nguyễn Hải Ninh
Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Ban Cán sự Đảng, Bộ trưởng Bộ Tư pháp
(Ảnh: Internet)
[1]. Theo Công báo trong Thư viện pháp luật (https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Bo-may-hanh-chinh/Nghi-dinh-37-TP-to-chuc-bo-Tu-phap-22535.aspx).
[2]. Nguyên văn trong Nghị định số 37-TP là: “Thi hành các hiệp ước quốc tế về dân sự, thương sự và tố tụng thủ tục - Dự án các hiệp ước về tư pháp - Thi hành những việc điều tra về dân sự và thương sự do ngoại quốc ủy cho làm, hoặc ủy quyền ngoại quốc điều tra về những việc dân sự và thương sự.
[3]. Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Bộ Tư pháp, “Ngành Tư pháp Việt Nam 70 năm xây dựng và phát triển”, Nxb. Tư pháp năm 2015, tr. 28.
[4]. Như Sắc lệnh số 46/SL ngày 10/10/1945 quy định về tổ chức các đoàn thể luật sư, Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946 về tổ chức các Tòa án và cách ngạch thẩm phán.
[5]. https://moj.gov.vn/qt/cacchuyenmuc/70TuPhapVietNam/Pages/tu-lieu-nganh.aspx?ItemID=54.
[6]. Theo các Sắc lệnh số 13/SL, Sắc lệnh số 51/SL ngày 17/4/1946, Sắc lệnh số 131/SL ngày 20/7/1946.
[7]. Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Bộ Tư pháp, tlđd, tr. 17.
[8]. Thông báo kết luận số 108-TB/VPTW ngày 18/11/2024 của Văn phòng Trung ương Đảng.
[9]. https://special.nhandan.vn/sap-xep-to-chuc-bo-may-tinh-gon-manh-hieu-nang-hieu-luc-hieu-qua/index.html.
[10]. Thông báo số 108-TB/VPTW ngày 18/11/2024 của Văn phòng Trung ương Đảng.