Mở đầu buổi họp báo, thừa ủy quyền của Chủ tịch nước, Phó Chủ nhiệm Thường trực Văn phòng Chủ tịch nước đọc Lệnh về việc công bố 16 luật, bộ luật và 7 nghị quyết, bao gồm: (1) Luật, bộ luật: Bộ luật Dân sự; Bộ luật Tố tụng dân sự; Bộ luật Hình sự; Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật Tố tụng hành chính; Luật Trưng cầu ý dân; Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự; Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam; Luật Quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng; Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân; Luật An toàn thông tin mạng; Luật Thống kê; Luật Kế toán; Luật Phí và lệ phí; Bộ luật Hàng hải; Luật Khí tượng thủy văn; (2) Nghị quyết: Nghị quyết về ban hành nội quy kỳ họp Quốc hội; Nghị quyết về thực hiện chế định Thừa phát lại; Nghị quyết về thi hành Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết về thi hành Bộ luật Hình sự; Nghị quyết về thi hành Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết về việc thi hành Luật Tố tụng hành chính; Nghị quyết về việc phê chuẩn Nghị định thư sửa đổi Hiệp định Marrakesh thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới.
Ông Giang Sơn cho biết, những luật, bộ luật và nghị quyết được công bố lần này đã thể chế hóa đầy đủ, toàn diện các chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng về cải cách tư pháp; thể hiện đúng tinh thần của Hiến pháp năm 2013, nhằm tạo ra cơ chế hữu hiệu để bảo vệ chế độ, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, lợi ích của Nhà nước và tổ chức, góp phần bảo vệ trật tự, an toàn xã hội, thúc đẩy sự phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Sau đây, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu những điểm mới cơ bản của một số luật, bộ luật có ảnh hưởng lớn đến đời sống của cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp và được dư luận rất quan tâm.
1. Bộ luật Dân sự
Giới thiệu về Bộ luật Dân sự được Quốc hội thông qua ngày 24/11/2015, Thứ trưởng Bộ Tư pháp Lê Thành Long cho biết, việc xây dựng Bộ luật này được thực hiện dựa trên cơ sở quán triệt những quan điểm chỉ đạo về việc thể chế hóa đầy đủ, đồng thời tăng cường các biện pháp để công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền công dân trong các lĩnh vực của đời sống dân sự, cũng như những tư tưởng, nguyên tắc cơ bản của nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa về quyền sở hữu, quyền tự do kinh doanh, quyền bình đẳng giữa các chủ thể thuộc mọi hình thức sở hữu và thành phần kinh tế đã được ghi nhận trong các nghị quyết của Đảng, đặc biệt là trong Hiến pháp năm 2013. Mục tiêu cơ bản là xây dựng Bộ luật Dân sự thực sự trở thành bộ luật nền, có vị trí, vai trò là luật chung của cả hệ thống pháp luật điều chỉnh các quan hệ dân sự; có tính khái quát, tính dự báo và tính khả thi để một mặt, bảo đảm sự ổn định của Bộ luật, mặt khác đáp ứng kịp thời sự phát triển thường xuyên, liên tục của các quan hệ xã hội thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự.
Về bố cục, với 27 chương, 689 điều, Bộ luật Dân sự được chia làm 6 phần: Phần thứ nhất “Quy định chung”, Phần thứ hai “Quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản”, Phần thứ ba “Nghĩa vụ và hợp đồng”, Phần thứ tư “Thừa kế”, Phần thứ năm “Pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài”, Phần thứ sáu “Điều khoản thi hành”.
Theo Thứ trưởng Lê Thành Long, để bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất và ổn định trong hệ thống pháp luật dân sự, Bộ luật quy định Bộ luật Dân sự là luật chung điều chỉnh các quan hệ được hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự do ý chí, độc lập về tài sản và tự chịu trách nhiệm. Cụ thể, Bộ luật quy định chi tiết hơn và bổ sung các công cụ pháp lý giúp Tòa án có đủ căn cứ giải quyết các vụ việc dân sự, nhất là khi chưa có điều luật để áp dụng. Trường hợp này, Tòa án có thể áp dụng tập quán, tương tự pháp luật, nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ và lẽ công bằng.
Nhằm góp phần cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013 về hoàn thiện hơn cơ chế pháp lý bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong lĩnh vực dân sự, Bộ luật quy định Tòa án không được từ chối giải quyết vụ việc dân sự với lý do chưa có điều luật để áp dụng; Tòa án chỉ được áp dụng thời hiệu khi giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp một bên hoặc các bên quan hệ dân sự có yêu cầu; hoàn thiện các quy định về quyền nhân thân, trong đó ghi nhận cá nhân được chuyển đổi giới tính theo quy định của luật…
Bộ luật hoàn thiện chế định về chủ thể quan hệ pháp luật dân sự, theo đó chủ thể của quan hệ này bao gồm cá nhân và pháp nhân. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cơ quan nhà nước ở trung ương, địa phương bình đẳng với chủ thể khác khi tham gia quan hệ dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của Bộ luật Dân sự. Trường hợp hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân tham gia quan hệ dân sự thì các thành viên là chủ thể tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự…
Hoàn thiện chế định tài sản và quyền sở hữu, trong đó quy định tài sản trong quan hệ dân sự có thể là tài sản hiện có hoặc tài sản được hình thành trong tương lai, quyền sử dụng đất là một quyền tài sản, việc đăng ký tài sản phải được công khai; bổ sung quyền khác đối với tài sản, bao gồm quyền đối với bất động sản liền kề, quyền hưởng dụng và quyền bề mặt, bảo đảm cho chủ thể có các quyền này được trực tiếp nắm giữ, chi phối tài sản thuộc quyền sở hữu của chủ thể khác.
Ngoài ra, Bộ luật cũng sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các chế định về giao dịch dân sự, đại diện, nghĩa vụ và hợp đồng để tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy sự phát triển của sản xuất, kinh doanh, sự thông thoáng, ổn định trong giao lưu dân sự; bảo vệ được quyền và lợi ích của bên yếu thế, bên thiện chí, ngay tình; hạn chế tối đa sự can thiệp của cơ quan công quyền vào các quan hệ dân sự.
Bộ luật Dân sự có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2017.
2. Bộ luật Hình sự và Nghị quyết về việc thi hành Bộ luật Hình sự
Đại diện Bộ Tư pháp - đơn vị chủ trì soạn thảo cho rằng, trên cơ sở thể chế hóa đầy đủ, toàn diện các chủ trương, đường lối của Đảng; cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013; dựa trên tổng kết thực tiễn thi hành Bộ luật Hình sự năm 1999 và những đổi mới trong nhận thức về chính sách hình sự, thì Bộ luật Hình sự năm 2015 được xác định là sửa đổi cơ bản và toàn diện, theo đó, trong tổng số 462 điều, có 72 điều mới được bổ sung, 362 điều được sửa đổi, giữ nguyên 17 điều và bãi bỏ 07 điều. So với Bộ luật Hình sự năm 1999, thì Bộ luật năm 2015 bổ sung mới 02 chương ở Phần những quy định chung (là Chương IV “Những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự” và Chương XI “Quy định đối với pháp nhân thương mại phạm tội”). Thứ trưởng Bộ Tư pháp Lê Thành Long nhấn mạnh một số điểm mới cơ bản của Bộ luật Hình sự năm 2015 đó là:
Thứ nhất, bổ sung quy định về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại phạm tội trong các lĩnh vực kinh tế, môi trường; đồng thời xác định cụ thể điều kiện trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại và quy định 31 tội phạm thuần túy là các tội phạm trong lĩnh vực kinh tế và môi trường mà pháp nhân phải chịu trách nhiệm hình sự.
Thứ hai, bãi bỏ hình phạt tử hình đối với một số tội phạm, đồng thời mở rộng đối tượng không bị áp dụng hình phạt tử hình và không thi hành án tử hình. Theo đó: (i) Bãi bỏ hình phạt tử hình đối với 07 tội, trong đó có 04 tội là bỏ hoàn toàn (gồm: Tội cướp tài sản; Tội phá hủy công trình, cơ sở phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia; Tội chống mệnh lệnh; Tội đầu hàng địch), 03 tội bỏ hình phạt tử hình trên cơ sở tách ra từ các tội có quy định hình phạt tử hình trước đó (gồm: Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm; Tội tàng trữ trái phép chất ma túy; Tội chiếm đoạt chất ma túy); (ii) Bổ sung đối tượng không áp dụng hình phạt tử hình là người từ 75 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc khi xét xử; (iii) Mở rộng thêm 02 trường hợp không thi hành án tử hình gồm người từ đủ 75 tuổi trở lên và người bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ mà sau khi kết án đã chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn. Trong 02 trường hợp này sẽ chuyển hình phạt tử hình thành hình phạt tù chung thân.
Thứ ba, hoàn thiện chính sách xử lý đối với người dưới 18 tuổi.
Thứ tư, thay thế Tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng bằng các tội danh cụ thể trong lĩnh vực quản lý kinh tế.
Thứ năm, sửa đổi, bổ sung một số nội dung nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập trong thực tiễn, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới như: Bổ sung và cụ thể hóa các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự, sửa đổi chính sách xử lý đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội…
Thứ sáu, Bộ luật Hình sự mới đã nội luật hóa các quy định có liên quan của điều ước quốc tế mà nước ta là thành viên, góp phần tăng cường hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Để triển khai thực hiện Bộ luật Hình sự, Quốc hội cũng đã thông qua Nghị quyết số 109/2015/QH13 về việc thi hành Bộ luật Hình sự, trong đó, Nghị quyết xác định rõ trách nhiệm của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình phối hợp triển khai thi hành Bộ luật Hình sự năm 2015.
Bộ luật Hình sự năm 2015 có hiệu lực thi hành ngày 01/7/2016.
3. Bộ luật Tố tụng dân sự và Nghị quyết về việc thi hành Bộ luật Tố tụng dân sự
Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Tống Anh Hào khẳng định, Bộ luật Tố tụng dân sự là cơ sở pháp lý quan trọng cho sự phát triển và nâng cao chất lượng hoạt động tố tụng dân sự của Tòa án nhân dân, bảo đảm Tòa án thực sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Vì vậy, để thể chế hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất với Luật Tổ chức Tòa án nhân dân và các văn bản pháp luật khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam, đồng thời nhằm tháo gỡ những khó khăn, bất cập trong thực tiễn giải quyết, xét xử các vụ việc dân sự thì việc sửa đổi Bộ luật Tố tụng dân sự là hết sức cần thiết.
Bộ luật Tố tụng dân sự (sửa đổi) có tổng số 517 điều, được bố cục thành mười phần, 42 chương. So với Bộ luật Tố tụng dân sự hiện hành, Bộ luật Tố tụng dân sự (sửa đổi) giữ nguyên 63 điều; sửa đổi, bổ sung 350 điều; bổ sung mới 104 điều; bãi bỏ 07 điều (trong đó bỏ chương về tương trợ tư pháp trong tố tụng dân sự và bổ sung chương về thủ tục rút gọn; yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn; yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu; yêu cầu tuyên bố hợp đồng lao động vô hiệu, thỏa ước lao động tập thể vô hiệu; yêu cầu Tòa án xét tính hợp pháp của cuộc đình công; yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án; yêu cẩu Tòa án bắt giữ tàu bay, tàu biển.
Tại buổi họp báo, ông Tống Anh Hào nêu ra một số đổi mới quan trọng của Bộ luật Tố tụng dân sự (sửa đổi) như: (i) Bộ luật quy định Tòa án không được từ chối yêu cầu giải quyết vụ án dân sự vì lý do không có điều luật áp dụng. Trong trường hợp chưa có điều luật cụ thể áp dụng, thì Tòa án áp dụng tinh thần của Hiến pháp, tập quán, tương tự pháp luật, những nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ hoặc lẽ công bằng mà Bộ luật Dân sự đã quy định để giải quyết vụ án; (ii) Đổi mới mô hình thủ tục tố tụng dân sự theo hướng kết hợp giữa thủ tục tố tụng thẩm vấn và thủ tục tố tụng tranh tụng, trong đó: Bổ sung nguyên tắc bảo đảm quyền tranh tụng trong xét xử; quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên trong tranh tụng; về trách nhiệm chứng minh, giao nộp chứng cứ ở các giai đoạn tố tụng; về thời điểm và điều kiện giao nộp chứng cứ; về phương thức, thủ tục tranh tụng trong từng giai đoạn tố tụng; (iii) Quy định xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vụ án dân sự theo thủ tục rút gọn. Theo đó, điều kiện đưa vụ án dân sự ra xét xử theo thủ tục rút gọn là đối với những vụ án có tình tiết đơn giản, quan hệ pháp luật rõ ràng, đương sự đã thừa nhận nghĩa vụ...; thành phần xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vụ án theo thủ tục rút gọn là một thẩm phán; thủ tục giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục rút gọn sẽ không tổ chức phiên hòa giải và phiên họp tiếp cận, công khai chứng cứ mà thẩm phán tiến hành hòa giải, công khai ngay sau khi khai mạc phiên tòa.
Để triển khai thực hiện Bộ luật Tố tụng dân sự, ngày 25/11/2015, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 103/2015/QH13 về việc thi hành Bộ luật Tố tụng dân sự.
Bộ luật Tố tụng dân sự (sửa đổi) có hiệu lực thi hành 01/7/2016.
4. Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết về việc thi hành Bộ luật Tố tụng hình sự
Trong phần giới thiệu về Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Phó Viện trưởng Thường trực Viện kiểm sát nhân dân tối cao Nguyễn Hải Phong cho biết, với kết cấu gồm 09 phần, 36 chương, 510 điều, Bộ luật này bảo đảm thống nhất với các luật mới được Quốc hội ban hành, nắm bắt các định hướng lớn trong những dự án luật liên quan đang được soạn thảo, nội luật hóa các điều ước quốc tế liên quan đến tố tụng hình sự mà Việt Nam là thành viên.
Những nội dung mới cơ bản của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 là: (i) Hoàn thiện các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự; (ii) Quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan tố tụng, tạo điều kiện để các cơ quan thực hiện tốt trách nhiệm luật định; (iii) Phân định rõ thẩm quyền hành chính với thẩm quyền tư pháp, tăng quyền, tăng trách nhiệm cho điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán; (iv) Quy định cụ thể trình tự, thủ tục trong từng giai đoạn tố tụng nhằm tháo gỡ vướng mắc, bất cập của thực tiễn; (v) Quy định chặt chẽ các biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân; (vi) Bảo đảm quyền bào chữa của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo; (vii) Về các biện pháp chống bức cung, nhục hình; tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm sát hoạt động tố tụng hình sự. Theo đó, bắt buộc phải ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh khi hỏi cung bị can tại cơ sở giam giữ hoặc tại trụ sở cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; (viii) Quy định về thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân nhằm bảo đảm sự phù hợp và thống nhất với Bộ luật Hình sự năm 2015
Ngày 27/11/2015, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 110/2015/QH13 về việc thi hành Bộ luật Tố tụng hình sự, theo đó giao Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, tự mình hoặc phối hợp với các cơ quan hữu quan tổ chức việc rà soát các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 để bãi bỏ, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành văn bản mới; đề nghị Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội và các cơ quan hữu quan bãi bỏ, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành văn bản mới cho phù hợp với quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; khẩn trương kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ, công chức, cơ sở vật chất; bổ sung, đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ đối với đội ngũ cán bộ, công chức của Cơ quan điều tra, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan thi hành án và các cơ quan bổ trợ tư pháp; bổ sung các điều kiện cần thiết khác để bảo đảm đáp ứng yêu cầu giải quyết các vụ án hình sự và thi hành án hình sự khi Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 có hiệu lực thi hành; phối hợp với Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận tuyên truyền, phổ biến rộng rãi Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 trong cán bộ, công chức, viên chức và nhân dân nhằm phát huy hiệu quả của Bộ luật này trong đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 có hiệu lực thi hành ngày 01/7/2016.
5. Luật Tố tụng hành chính
Đại diện cơ quan chủ trì soạn thảo, Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Tống Anh Hào nêu rõ, việc ban hành Luật Tố tụng hành chính (sửa đổi) phải bảo đảm trình tự và thủ tục hành chính có tính khả thi, dân chủ, công khai, công bằng, thuận lợi cho người tham gia tố tụng thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình; đề cao trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tố tụng hành chính; bảo đảm các bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật phải được thi hành.
Luật Tố tụng hành chính (sửa đổi) có những điểm mới như: Một là, bổ sung các quy định để cụ thể hóa nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013; hai là, quy định trong quá trình giải quyết vụ án hành chính, Tòa án có quyền xem xét về tính hợp pháp của văn bản hành chính, hành vi hành chính có liên quan đến quyết định hành chính, hành vi hành chính bị kiện và kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại văn bản hành chính, hành vi hành chính đó và trả lời kết quả cho Tòa án theo quy định của pháp luật…; ba là, bổ sung quy định giải quyết vụ án hành chính theo thủ tục rút gọn; bốn là, bổ sung một chương (Chương XVIII) về thủ tục giải quyết các vụ án hành chính có yếu tố nước ngoài; năm là, bổ sung quy định về thi hành án hành chính, theo đó thời hạn tự nguyện thi hành án là 30 ngày kể từ ngày nhận được bản án, quyết định của Tòa án; sáu là, bổ sung một chương mới quy định về án phí, lệ phí và chi phí tố tụng khác.
Luật Tố tụng hành chính (sửa đổi) có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2006, trừ các quy định có liên quan đến người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; liên quan đến pháp nhân là người đại diện, người giám hộ; quy định liên quan đến hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức không có tư cách pháp nhân theo quy định của Bộ luật Dân sự số 91/2015/QH13 thì có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2017.
6. Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự
Đề cập đến việc cần phải có Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự, Trung tướng Nguyễn Ngọc Anh - đại diện Bộ Công an, đơn vị chủ trì soạn thảo cho biết, để tiếp tục thể chế hóa đường lối chính sách của Đảng về cải cách tư pháp và đổi mới tổ chức, hoạt động của cơ quan điều tra; bảo đảm tính thống nhất và sự đồng bộ trong hệ thống pháp luật của Nhà nước ta, khắc phục những hạn chế, bất cập của Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự năm 2004, thì việc xây dựng, ban hành Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự là cần thiết, nhằm tạo cơ sở pháp lý toàn diện, đồng bộ, cụ thể và nâng cao hiệu quả hoạt động điều tra hình sự trong tình hình mới.
Với 10 chương, 73 điều Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự quy định về phạm vi điều chỉnh; đối tượng áp dụng; nguyên tắc tổ chức điều tra hình sự; tổ chức bộ máy, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan điều tra của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân tối cao; nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra (Bộ đội biên phòng, hải quan, kiểm lâm, lực lượng cảnh sát biển, kiểm ngư…); quy định quan hệ giữa các cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, ủy thác điều tra, quan hệ giữa đơn vị điều tra và đơn vị trinh sát…; quy định về thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan điều tra, điều tra viên và cán bộ điều tra (ngạch, tiêu chuẩn bổ nhiệm, nhiệm kỳ điều tra viên; bổ nhiệm điều tra viên trong trườn hợp đặc biệt; nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan điều tra, điều tra viên…); bảo đảm điều kiện cho hoạt động điều tra hình sự như: Chế độ, chính sách đối với người làm công tác điều tra hình sự; bảo đảm biên chế, đào tạo, bồi dưỡng trong công tác điều tra hình sự; cơ sở vật chất và kinh phí cho hoạt động điều tra hình sự); quy định trách nhiệm của Chính phủ, các bộ, ngành và Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong công tác điều tra hình sự.
Trung tướng Nguyễn Ngọc Anh cũng cho biết thêm, trong thời gian tới, Bộ Công an sẽ giúp Chính phủ và phối hợp với các bộ, ngành, chính quyền địa phương triển khai thi hành đạo luật quan trọng này.
Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự có hiệu lực thi hành ngày 01/7/2016.
7. Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam
Về sự cần thiết ban hành Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam, Trung tướng Nguyễn Ngọc Anh - đại diện Bộ Công an cho biết, bên cạnh những thuận lợi và kết quả đã đạt được, việc quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam đã bộc lộ nhiều tồn tại, hạn chế, vướng mắc như: Quy định của pháp luật hiện hành về chế độ quản lý giam giữ đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam chưa cụ thể; chế độ ăn, mặc, ở, khám chữa bệnh đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam còn chưa phù hợp với điều kiện thực tế; chưa có quy định về chế độ đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam là người chưa thành niên, phụ nữ có thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi, người đồng tính hoặc người có khiếm khuyết về giới tính; việc quản lý người bị kết án tử hình gặp nhiều khó khăn do chưa có cơ chế phù hợp; điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật chưa đáp ứng yêu cầu thực tế nên hạn chế hiệu quả công tác quản lý giam giữ...
Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam quy định về: (i) Những nguyên tắc quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam; kiểm soát hoạt động quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam; giám sát việc thực hiện chế độ tạm giữ, tạm giam; (ii) Hệ thống tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam; (iii) Chế độ quản lý giam giữ; (iv) Chế độ của người bị tạm giữ, tạm giam nói chung và của người dưới 18 tuổi, phụ nữ có thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi, người bị kết án tử hình đang bị tạm giam; (v) Bảo đảm điều kiện, kiểm sát, khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam; (vi) Trách nhiệm trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam.
Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam có hiệu lực thi hành ngày 01/7/2016.
8. Luật Trưng cầu ý dân
Giới thiệu về Luật Trưng cầu ý dân, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hội Luật gia Việt Nam Lê Minh Tâm cho biết, việc ban hành Luật Trưng cầu ý dân để kịp thời thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng, cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013 về phát huy dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân, mở rộng các hình thức dân chủ trực tiếp để người dân tham gia vào công việc của Nhà nước.
Về thuật ngữ "trưng cầu ý dân", khoản 1 Điều 3 của Luật giải thích rõ "trưng cầu ý dân là việc Nhà nước tổ chức để cử tri cả nước trực tiếp biểu quyết bằng hình thức bỏ phiếu quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước theo quy định của Luật này"; qua đó cho thấy sự khác biệt cơ bản giữa "trưng cầu ý dân" và "lấy ý kiến nhân dân". Theo đó, tuy cùng một hình thức để nhân dân phát huy quyền dân chủ, thể hiện ý kiến của người dân với Nhà nước, nhưng với "trưng cầu ý dân" thì vấn đề đưa ra trưng cầu là những vấn đề quan trọng của đất nước, có phạm vi ảnh hưởng toàn quốc và phải do Quốc hội quyết định; còn "lấy ý kiến nhân dân" thì chỉ ở phạm vi, mức độ khác nhau; "trưng cầu ý dân" thì phải thông qua hình thức là bỏ phiếu kín, "lấy ý kiến nhân dân" thì hình thức để người dân thể hiện ý chí thường linh hoạt hơn. Xét về giá trị pháp lý, thì "trưng cầu ý dân" có giá trị quyết định đối với các quyết định được đưa ra trưng cầu, còn kết quả lấy ý kiến nhân dân là cơ sở để cơ quan, tổ chức tham khảo, tiếp thu; đối tượng của trưng cầu là các cử tri, còn đối tượng của việc lấy ý kiến nhân dân có thể là cơ quan, tổ chức, cá nhân, hộ gia đình… nhưng việc ban hành Luật Trưng cầu ý dân không hạn chế việc Nhà nước tổ chức lấy ý kiến nhân dân đối với những vấn đề đã được quy định trong Hiến pháp và pháp luật.
Người có quyền bỏ phiếu trưng cầu ý dân là công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đủ 18 tuổi trở lên tính đến ngày trưng cầu ý dân, trừ trường hợp khác theo quy định của Luật này.
Về các vấn đề trưng cầu ý dân (Điều 6): Luật Trưng cầu ý dân quy định Quốc hội xem xét, quyết định trưng cầu ý dân về các vấn đề: (i) Toàn văn Hiến pháp hoặc một số nội dung quan trọng của Hiến pháp; (ii) Vấn đề đặc biệt quan trọng về chủ quyền, lãnh thổ quốc gia, về quốc phòng, an ninh, đối ngoại có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của quốc gia; (iii) Vấn đề đặc biệt quan trọng về kinh tế - xã hội có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của đất nước; (iv) Vấn đề đặc biệt quan trọng khác của đất nước.
Về phạm vi, trưng cầu ý dân được thực hiện trong phạm vi cả nước.
Luật Trưng cầu ý dân có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016.
9. Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân
Theo ông Đặng Đình Luyến - Phó Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội, thì Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân quy định chung cả giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân. Theo đó, cơ cấu, bố cục của Luật cũng thể hiện theo hướng những vấn đề chung cho giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân được quy định chung trong một chương, những vấn đề mang tính đặc thù giám sát riêng cho Quốc hội hoặc Hội đồng nhân dân thì quy định trong chương riêng.
Về mặt nội dung, Luật có một số điểm mới như: Một là, bổ sung quy định nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân; hai là, bổ sung một số nội dung mới về hoạt động giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Bên cạnh đó, Luật đã sắp xếp lại bố cục và bổ sung một số nội dung để làm rõ hơn hình thức giám sát, trình tự thực hiện giám sát của Thường trực Hội đồng nhân dân; ba là, quy định rõ hơn về nội dung Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội giám sát văn bản quy phạm pháp luật; bốn là, bổ sung mục quy định các hoạt động giám sát của đại biểu Hội đồng nhân dân; trình tự, thủ tục tiến hành các hoạt động giám sát.
Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016.
10. Luật Quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng
Giới thiệu những nội dung cơ bản của Luật Quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng, Thiếu tướng Tô Viết Báo - Cục trưởng Cục Quân lực, Bộ Quốc phòng cho biết, để đảm bảo nguồn nhân lực cho quân đội, giảm chi phí đào tạo thay thế số quân nhân chuyên nghiệp thôi phục vụ tại ngũ và phát huy được trình độ, năng lực, kinh nghiệm thực tiễn của quân nhân chuyên nghiệp còn đủ sức khỏe; đồng thời khắc phục tình trạng hằng năm phải kéo dài độ tuổi phục vụ tại ngũ với số lượng lớn, Luật đã quy định hạn tuổi cao nhất phục vụ tại quân ngũ theo cấp bậc quân hàm là: Cấp úy quân nhân chuyên nghiệp: Nam 52 tuổi, nữ 52 tuổi; Thiếu tá và Trung tá quân nhân chuyên nghiệp: Nam 54 tuổi, nữ 54 tuổi; Thượng tá quân nhân chuyên nghiệp: Nam 56, nữ 55 tuổi. Riêng chức danh chiến đấu viên để đảm bảo đủ sức khỏe hoàn thành nhiệm vụ, Luật quy định hạn tuổi cao nhất phục vụ tại ngũ là đủ 40 tuổi, khi hết hạn tuổi phục vụ thì được ưu tiên đào tạo, bồi dưỡng và được bố trí đảm nhiệm chức danh khác phù hợp với yêu cầu của quân đội hoặc được chuyển ngành. Trường hợp quân đội không thể tiếp tục bố trí sử dụng và không thể chuyển ngành được nếu có đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội, trong đó có đủ 15 năm là chiến đấu viên thì được nghỉ hưu.
Ngoài quy định hạn tuổi phục vụ cao nhất, Luật còn quy định quân nhân chuyên nghiệp được phục vụ tại ngũ có thời hạn ít nhất là 06 năm kể từ ngày quyết định chuyển thành quân nhân chuyên nghiệp hoặc phục vụ tại ngũ cho đến hết hạn tuổi cao nhất theo cấp bậc quân hàm và khi quân đội có nhu cầu, quân nhân chuyên nghiệp có phẩm chất chính trị, đạo đức trình độ, chuyên môn kỹ thuật, nghiệp vụ giỏi, sức khỏe tốt và tự nguyện thì được xem xét kéo dài tuổi phục vụ tại ngũ không quá 05 năm.
Hạn tuổi cao nhất phục vụ trong quân đội của công nhân quốc phòng, viên chức quốc phòng được quy định phù hợp với quy định của Bộ luật Lao động là nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi. Tuy nhiên, để phù hợp với tính chất, nhiệm vụ của quân đội, Luật quy định điều kiện hưởng lương hưu đối với công nhân, viên chức quốc phòng trong trường hợp do thay đổi tổ chức biên chế mà quân đội không còn nhu cầu bố trí sử dụng, nếu nam đủ 55 tuổi đến dưới 60 tuổi, nữ đủ 50 tuổi đến dưới 55 tuổi và có đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội trở lên thì được nghỉ hưu.
Luật Quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016.
11. Luật An toàn thông tin mạng
Theo lãnh đạo Cục An toàn thông tin - Bộ Thông tin và Truyền thông, thì Luật An toàn thông tin mạng được ban hành hướng đến giải quyết các yêu cầu về an toàn thông tin mạng quốc gia, qua đó hoàn thiện cơ sở pháp lý ổn định về an toàn thông tin theo hướng áp dụng các quy định pháp luật một cách đồng bộ, khả thi trong thực tiễn thi hành và phát huy các nguồn lực của đất nước để bảo đảm an toàn thông tin mạng, phát triển lĩnh vực an toàn thông tin mạng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, quốc phòng, an ninh, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân và bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Đồng thời, Luật An toàn thông tin mạng cũng hướng tới mục tiêu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động an toàn thông tin mạng; đẩy mạnh công tác giám sát, phòng, chống nguy cơ mất an toàn thông tin mạng, đảm bảo hiệu quả công tác thực thi quản lý nhà nước trong lĩnh vực an toàn thông tin mạng; mở rộng hợp tác quốc tế về an toàn thông tin mạng trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng, cùng có lợi, phù hợp với luật pháp Việt Nam và điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia ký kết.
Luật An toàn thông tin mạng gồm 08 chương, 54 điều quy định về hoạt động an toàn thông tin mạng, quyền và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc bảo đảm an toàn thông tin mạng; mật mã dân sự; tiêu chuẩn; quy chuẩn kỹ thuật về an toàn thông tin mạng; kinh doanh trong lĩnh vực an toàn thông tin mạng; phát triển nguồn nhân lực an toàn thông tin mạng; quản lý nhà nước về an toàn thông tin mạng.
Đại diện Bộ Thông tin và Truyền thông cũng cho biết, để bảo đảm triển khai hiệu quả các quy định tại Luật An toàn thông tin mạng, ngay sau khi Luật được thông qua, Chính phủ sẽ xây dựng và ban hành các văn bản hướng dẫn dưới Luật, dự kiến trong năm 2016. Trong đó, Bộ Thông tin và Truyền thông sẽ chủ trì, xây dựng và trình Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ ban hành 03 văn bản là: Nghị định quy định chi tiết về tiêu chí, thẩm quyền, trình tự, thủ tục xác định cấp độ an toàn hệ thống thông tin và trách nhiệm bảo đảm an toàn hệ thống thông tin theo từng cấp độ; Nghị định quy định chi tiết về điều kiện cấp giấy phép kinh doanh sản phẩm, dịch vụ an toàn thông tin mạng và Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về danh mục sản phẩm, dịch vụ an toàn thông tin.
Bên cạnh đó, trong thẩm quyền của mình, thời gian tới, Bộ Thông tin và Truyền thông, cũng sẽ có các Thông tư hướng dẫn chi tiết một số quy định tại Luật An toàn thông tin mạng, các Nghị định của Chính phủ và xây dựng, đề xuất ban hành hoặc ban hành hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn về an toàn thông tin mạng; tổ chức các hoạt động tuyên truyền, phổ biến Luật.
Bộ Quốc phòng sẽ chủ trì xây dựng và trình Chính phủ ban hành Nghị định quy định chi tiết về hoạt động ngăn chặn xung đột thông tin trên mạng và Nghị định quy định chi tiết về mật mã dân sự.
Bộ Công an sẽ chủ trì xây dựng và trình Chính phủ ban hành Nghị định quy định về ngăn chặn hoạt động sử dụng mạng để khủng bố.
Luật An toàn thông tin mạng có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2016.
12. Luật Khí tượng thủy văn
Giới thiệu về Luật Khí tượng thủy văn, Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Nguyễn Minh Lộc cho biết, lần đầu tiên trong lịch sử hơn 100 năm xây dựng và phát triển, toàn bộ hoạt động khí tượng thủy văn trên lãnh thổ Việt Nam đã được điều chỉnh bằng Luật. Luật sẽ tạo ra bước thay đổi quan trọng cho công tác quản lý nhà nước về khí tượng thủy văn; bảo đảm điều kiện cho hoạt động khí tượng thủy văn phát triển, cung cấp và sử dụng thông tin khí tượng thủy văn trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội có hiệu quả. Đặc biệt, Luật tạo hành lang pháp lý cho hoạt động khí tượng thủy văn bảo đảm công tác phụ vụ phòng chống, giảm nhẹ thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu…
Luật Khí tượng thủy văn có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016.
13. Nghị quyết ban hành nội dung kỳ họp Quốc hội
Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Nguyễn Hữu Toàn cho biết, sau 13 năm thi hành, Nội quy kỳ họp Quốc hội năm 2002 cần được sửa đổi, bổ sung bởi những lý do: Thứ nhất, Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014 và nhiều đạo luật khác ra đời đã sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội nên Nội quy cũng cần phải được thay đổi để bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật; thứ hai, Nội quy kỳ họp Quốc hội hiện hành sau nhiều năm thực hiện đã bộc lộ những hạn chế, bất cập cần được khắc phục; thứ ba, từ năm 2002 đến nay đã có những đổi mới, cải tiến về công tác chuẩn bị tiến hành kỳ họp, về quy trình, thủ tục thực hiện xem xét, quyết định các nội dung tại kỳ họp đã được thực tiễn kiểm nghiệm chứng minh là đúng đắn và phù hợp, do đó, cần được quy định trong Nội quy để bảo đảm tính pháp lý.
Nội quy kỳ họp Quốc hội năm 2015 gồm 3 chương với 56 điều, giảm 1 chương, tăng 9 điều so với Nội quy năm 2002. Theo đại diện Văn phòng Quốc hội, thì điểm nổi bật của Nghị quyết là bổ sung quy định về thủ tục tuyên thệ ngay sau khi được bầu đối với Chủ tịch Quốc hội, Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
So với Nội quy năm 2002, Nội quy mới bổ sung quy định về phiên họp trù bị của Quốc hội tại kỳ họp để khẳng định tính pháp lý của phiên họp trù bị; quy định cụ thể thời điểm khai mạc các kỳ họp thường lệ của Quốc hội (khai mạc kỳ họp đầu năm vào ngày 20/5, kỳ họp cuối năm vào ngày 20/10, nếu trùng vào thứ sáu của tuần hoặc ngày nghỉ theo quy định của pháp luật thì được chuyển sang ngày làm việc tiếp theo); bổ sung quy trình xem xét, thông qua quy trình kỳ họp, quy trình sửa đổi, bổ sung chương trình kỳ họp Quốc hội và quy định về nguyên tắc, thẩm quyền tiến hành tổng kết kỳ họp.
Nội quy bổ sung quy định về trình tự, thủ tục Quốc hội bầu Chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc gia, Tổng kiểm toán nhà nước, Tổng thư ký Quốc hội; phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; phê chuẩn danh sách Phó Chủ tịch và ủy viên Hội đồng Bầu cử quốc gia
Nghị quyết có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2016.
14. Nghị quyết số 107/2015/QH13 về thực hiện Thừa phát lại
Trên cơ sở kết quả thí điểm và Báo cáo tổng kết của Chính phủ, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 107/2015/QH13 về thực hiện Thừa phát lại. Theo đó, chấm dứt việc thí điểm và cho thực hiện chế định Thừa phát lại trong phạm vi cả nước kể từ ngày 01/01/2016. Quốc hội giao Chính phủ căn cứ tình hình thực tế ở địa phương, tổ chức thực hiện chế định này trong phạm vi hành nghề theo quy định hiện hành, có sự sửa đổi, bổ sung cần thiết để khắc phục những tồn tại, hạn chế trong hoạt động Thừa phát lại.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Lê Thành Long cho biết, Nghị quyết đã chính thức cho ra đời một nghề mới trong thị trường dịch vụ pháp lý, tạo thêm một công cụ pháp lý để người dân tự bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình khi tham gia các giao dịch dân sự, kinh tế và trong quá trình tố tụng.
Ngoài ra, tại buổi họp báo còn công bố Bộ luật Hàng hải, Luật Thống kê, Luật Kế toán, Luật Phí và lệ phí và một số nghị quyết.
Bùi Huyền (Tổng hợp)