1. Luật Báo chí năm 2016 - Nhiều quy định cởi mở và thông thoáng hơn
Luật Báo chí năm 2016 đã quy định nhiều nội dung cởi mở và thông thoáng hơn so với các quy định pháp luật báo chí hiện hành:
- Mở rộng đối tượng được cấp thẻ nhà báo. Điểm c khoản 1 Điều 27 Luật Báo chí năm 2016 quy định: Đối với trường hợp cấp thẻ lần đầu, phải có thời gian công tác liên tục tại cơ quan báo chí đề nghị cấp thẻ từ 02 năm trở lên tính đến thời điểm xét cấp thẻ (pháp luật báo chí hiện hành quy định là 03 năm).
- Về đặt văn phòng đại diện của cơ quan báo chí: Luật Báo chí năm 2016 quy định cơ quan báo chí có nhu cầu đặt văn phòng đại diện gửi một bộ hồ sơ đến Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi cơ quan báo chí đặt văn phòng đại diện để thông báo trước khi văn phòng đại diện hoạt động 15 ngày (pháp luật báo chí hiện hành quy định phải được sự đồng ý bằng văn bản của Sở Thông tin và Truyền thông).
- Về hoạt động họp tác của báo chí Việt Nam với nước ngoài: Luật Báo chí năm 2016 đã bỏ quy định phải xin phép cơ quan có thẩm quyền đối với việc phát hành, truyền dẫn, phát sóng sản phẩm báo chí ra nước ngoài; thuê chuyên gia, cộng tác viên nước ngoài; cử nhà báo hoạt động báo chí ở nước ngoài; thành lập văn phòng đại diện ở nước ngoài; hoạt động hợp tác với nước ngoài.
Ngoài ra, Luật Báo chí năm 2016 có những nội dung mới như:
Thứ nhất, quy định cụ thể về quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân, trong đó quy định công dân có quyền sáng tạo tác phẩm báo chí, cung cấp thông tin cho báo chí, phản hồi thông tin trên báo chí, tiếp cận thông tin báo chí, liên kết với cơ quan báo chí thực hiện sản phẩm báo chí, in và phát hành báo in; góp ý kiến, phê bình, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên báo chí đối với các tổ chức của Đảng, cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội; tổ chức chính trị - xã hội, nghề nghiệp; tổ chức xã hội; tổ chức xã hội - nghề nghiệp và thành viên của các cơ quan, tổ chức đó.
Thứ hai, về đối tượng thành lập cơ quan báo chí, ngoài các đối tượng thành lập cơ quan báo chí theo luật hiện hành đã bổ sung một số đối tượng được thành lập tạp chí khoa học, như: Cơ sở giáo dục đại học theo quy định của Luật Giáo dục đại học; tổ chức nghiên cứu khoa học, tổ chức nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ được tổ chức dưới hình thức viện hàn lâm, viện theo quy định của Luật Khoa học và Công nghệ; bệnh viện từ cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc tương đương trở lên.
Thứ ba, Luật Báo chí năm 2016 đã bổ sung quy định về liên kết trong hoạt động báo chí, quy định cụ thể lĩnh vực, nội dung các cơ quan báo chí được phép liên kết với cơ quan báo chí khác, pháp nhân, cá nhân có đăng ký kinh doanh phù họp với lĩnh vực liên kết; thời lượng tối đa được phép liên kết trong kênh phát thanh, kênh truyền hình phục vụ nhiệm vụ chính trị, thông tin tuyên truyền thiết yếu theo quy định và kênh thời sự - chính trị tổng hợp; thời lượng tối đa mà cơ quan báo nói, báo hình có hoạt động liên kết sản xuất toàn bộ kênh phát thanh, kênh truyền hình. Cơ quan báo chí chủ động thực hiện, chịu trách nhiệm mà không phải xin phép cơ quan quản lý nhà nước về báo chí, nhằm cải cách thủ tục hành chính, bảo đảm tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của cơ quan báo chí.
Thứ tư, về quyền tác nghiệp của báo chí, Luật Báo chí năm 2016 đã quy định cụ thể về trách nhiệm cung cấp thông tin cho báo chí của cơ quan, tổ chức, người có trách nhiệm; những thông tin cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền có quyền từ chối cung cấp thông tin cho báo chí. Đồng thời quy định giới hạn việc cơ quan báo chí, nhà báo chỉ phải tiết lộ người cung cấp thông tin chỉ khi có yêu cầu bằng văn bản của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân, Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh và tương đương trở lên cần thiết cho việc điều tra, xét xử tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng. Đồng thời,Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân, Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh và tương đương trở lên có trách nhiệm tổ chức bảo vệ người cung cấp thông tin sau khi tên của họ được tiết lộ.
Thứ năm, luật hóa quy định về đạo đức nghề nghiệp của người làm báo. Luật Báo chí năm 2016 quy định Hội nhà báo Việt Nam có nhiệm vụ ban hành và tổ chức thực hiện quy định về đạo đức nghề nghiệp của người làm báo; nhà báo có nghĩa vụ tuân thủ quy định về đạo đức nghề nghiệp của người làm báo và sẽ bị thu hồi thẻ nhà báo khi vi phạm về đạo đức nghề nghiệp gây hậu quả nghiêm trọng.
Thứ sáu, về hoạt động kinh doanh dịch vụ của cơ quan báo chí: Luật Báo chí năm 2016 quy định mở hơn Luật Báo chí hiện hành về hoạt động kinh doanh, dịch vụ của cơ quan báo chí, quy định nguồn thu của cơ quan báo chí gồm thu từ hoạt động kinh doanh, dịch vụ của cơ quan báo chí, các đơn vị trực thuộc cơ quan báo chí.
Thứ bảy, quy định cụ thể hơn, rõ ràng hơn một số hành vi bị cấm so với Luật Báo chí hiện hành, có bổ sung một số hành vi như: Thông tin quy kết tội danh khi chưa có bản án của Tòa án, thông tin ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường về thể chất và tinh thần của trẻ em, thông tin về những chuyện thần bí gây hoang mang trong xã hội, ảnh hưởng xấu đến trật tự, an toàn xã hội và sức khỏe của cộng đồng....
Thứ tám, bố sung một số quy định mới về cải chính như: Báo chí điện tử, ngoài việc đăng, phát lời cải chính, xin lỗi còn phải gỡ bỏ ngay thông tin sai sự thật đã đăng, phát; thông tin cải chính, xin lỗi phải được lưu giữ trên báo ít nhất là 07 ngày kể từ ngày đăng, phát cải chính, xin lỗi. Các cơ quan báo chí, trang thông tin điện tử tổng hợp đã đăng, phát thông tin của cơ quan báo chí khác có nội dung phải cải chính, xin lỗi cũng phải thực hiện đăng lại cải chính, lỗi của cơ quan báo chí vi phạm. Đồng thời, quy định cụ thể vị trí cải chính đối với từng loại hình báo chí.
Luật Báo chí năm 2016 đã bổ sung quy định mới về xử lý vi phạm: Cơ quan báo chí bị thu hồi giấy phép hoạt động báo chí, giấy phép xuất bản thêm ấn phẩm báo chí, phụ trương, sản xuất thêm kênh phát thanh, kênh truyền hình, chuyên trang của báo điện tử và cơ quan, tổ chức bị thu hồi giấy phép xuất bản đặc san, bản tin khi đăng, phát thông tin vi phạm gây ảnh hưởng rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng.
Thứ chín, Luật đã pháp điển hóa quy định tại các Nghị định của Chính phủ để đưa vào luật, đồng thời bổ sung một số quy định mới để điều chỉnh hoạt động báo chí, cụ thể là các quy định về: Chính sách của Nhà nước về phát triển báo chí; thay đổi cơ quan chủ quản của cơ quan báo chí; hoạt động họp tác của báo chí Việt Nam với nước ngoài; hoạt động báo chí của báo chí nước ngoài, cơ quan đại diện nước ngoài, tổ chức nước ngoài tại Việt Nam; bảo vệ nội dung các chương trình phát thanh, chương trình truyền hình, báo điện tử; phản hồi thông tin.
Luật Báo chí năm 2016 có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2017.
2. Luật Trẻ em - Nghiêm cấm công bố, tiết lộ thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân của trẻ em
Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em được đổi thành Luật Trẻ em, phản ánh đầy đủ hơn nội dung và phạm vi của luật về đối tượng đặc thù như các luật đã được Quốc hội thông qua.
Ngoài các nhóm trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt đã được nêu trong Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004, Luật Trẻ em quy định thêm các nhóm trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt như trẻ em bị tổn hại nghiêm trọng về thể chất và tinh thần do bị bạo lực; trẻ em bị bóc lột; trẻ em bị mua bán; trẻ em mắc bệnh hiểm nghèo hoặc bệnh phải điều trị dài ngày thuộc hộ nghèo hoặc hộ cận nghèo; trẻ em di cư, trẻ em lánh nạn, tị nạn chưa xác định được cha, mẹ hoặc không có người chăm sóc.
Việc lồng ghép vấn đề trẻ em khi xây dựng pháp luật, chính sách được quy định thành một nguyên tắc bảo đảm thực hiện quyền và bổn phận của trẻ em, đồng thời cụ thể hóa thành trách nhiệm của các cơ quan có liên quan thuộc Quốc hội, Chính phủ.
Đặc biệt, Luật Trẻ em năm 2016 đã quy định cụ thể và bổ sung các hành vi bị nghiêm cấm như: Tước đoạt quyền sống của trẻ em; tổ chức, hỗ trợ, xúi giục, ép buộc trẻ em tảo hôn; cản trở trẻ em thực hiện quyền và bổn phận của mình; công bố, tiết lộ thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân của trẻ em; không thực hiện trách nhiệm hỗ trợ trẻ em có nguy cơ hoặc đang trong tình trạng nguy hiểm.
Luật quy định 25 nhóm quyền của trẻ em với một số quyền được bổ sung hoặc cụ thể hơn như: Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; quyền bí mật đời sống riêng tư; quyền được chăm sóc thay thế và nhận làm con nuôi; quyền được bảo vệ để không bị xâm hại tình dục, không bị bóc lột lao động, không bị bạo lực, không bị mua, bán, bắt cóc, đánh tráo, chiếm đoạt; quyền được bảo vệ trong tố tụng và xử lý vi phạm hành chính; quyền được bảo vệ khi gặp thiên tai, thảm họa, ô nhiêm môi trường, xung đột vũ trang; quyền được đảm bảo an sinh xã hội; quyền của trẻ em không quốc tịch, trẻ em lánh nạn, tị nạn.
Luật quy định các chính sách cơ bản của Nhà nước để bảo đảm trẻ em được chăm sóc, nuôi dưỡng, chăm sóc sức khỏe, giáo dục, bảo đảm điều kiện vui chơi, giải trí, hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể thao, du lịch và thông tin, truyền thông cho trẻ em. Đây là căn cứ quan trọng để Nhà nước ban hành các chính sách cụ thể thực hiện đầy đủ các quyền trẻ em phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội và giải quyết các vấn đề có liên quan đến trẻ em phát sinh trong thực tế.
Luật Trẻ em sẽ có hiệu lực kể từ ngày 01/6/2017.
3. Luật Tiếp cận thông tin - Bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của nhân dân
Luật Tiếp cận thông tin gồm 5 chương, 37 điều, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2018.
Luật đã cụ thế hóa quy định tại Điều 25 Hiến pháp năm 2013 “công dân có quyền... tiếp cận thông tin”, quy định chủ thể thực hiện quyền tiếp cận thông tin là công dân và quy định công dân được tiếp cận thôgn tin bằng hai cách thức: (i) Tự do tiếp cận thông tin do cơ quan nhà nước công khai; (ii) Yêu cầu cơ quan nhà nước cung cấp thông tin.
Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân trong việc xác định phạm vi thông tin mà mình được tiếp cận, Luật quy định về thông tin công dân được tiếp cận, thông tin công dân không được tiếp cận và thông tin công dân được tiếp cận có điều kiện.
Nhằm bảo đảm cho thông tin được công khai và phổ biến đến người dân ở phạm vi rộng nhất, Luật quy định các loại thông tin và cách thức công khai thông tin trên trang/cổng thông tin điện tử, phương tiện thông tin đại chúng và đăng công báo, niêm yết. Theo đó, Luật quy định các thông tin phải được công khai bao gồm thông tin mà pháp luật quy định phải được công khai; thủ tục hành chính và quy trình giải quyết công việc của cơ quan có liên quan đến cá nhân, tổ chức... nhằm tăng cường trách nhiệm của cơ quan nhà nước trong việc chủ động công khai các thông tin, từ đó sẽ giảm tải cung cấp thông tin theo yêu cầu của công dân, giảm chi phí hành chính cũng như chi phí tiếp cận thông tin cho người dân. Luật cũng quy định căn cứ vào điều kiện thực tế, cơ quan nhà nước chủ động công khai thông tin khác do mình tạo ra hoặc nắm giữ; và quy định các thông tin cụ thể bắt buộc phải đăng tải trên trang thông tin, cổng thông tin điện tử để người dân có thể tiếp cận.
Các loại thông tin được cung cấp theo yêu cầu bao gồm: (i) Thông tin phải được công khai nhưng chưa được công khai; đã hết thời hạn công khai hoặc đang được công khai nhưng vì lý do khách quan người yêu cầu không thế tiếp cận; (ii) Thông tin liên quan đến bí mật kinh doanh, đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình đủ điều kiện cung cấp; (iii) Thông tin liên quan trực tiếp đến đời sống, sinh hoạt, sản xuất, kinh doanh của người yêu cầu cung cấp thông tin nhưng không thuộc loại thông tin phải được công khai và thông tin hết thời hạn công khai.
Luật cũng quy định trình tự, thủ tục, thời hạn cung cấp thông tin theo yêu cầu trên tinh thần bảo đảm cho công dân được cung cấp thông tin một cách thuận tiện, nhanh chóng và ít tốn kém nhất. Cơ quan được yêu cầu cung cấp thông tin có trách nhiệm xem xét, giải quyết kịp thời yêu cầu cung cấp thông tin theo trình tự và thời hạn luật định.
Theo đó, Luật quy định trình tự, thủ tục cung cấp thông tin trực tiếp tại trụ sở cơ quan cung cấp thông tin; trình tự, thủ tục cung cấp thông tin qua mạng điện tử và trình tự, thủ tục cung cấp thông tin qua dịch vụ bưu chính, fax. Đối với yêu cầu cung cấp thông tin đơn giản, có sẵn và có thể cung cấp ngay, cơ quan được yêu cầu có trách nhiệm cung cấp thông tin ngay cho người yêu cầu hoặc trong thời hạn chậm nhất là 03 hoặc 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu hợp lệ. Đối với các thông tin phức tạp thì thời hạn cung cấp thông tin chậm nhất là 15 ngày làm việc.
Trường hợp cơ quan được yêu cầu cần thêm thời gian để xem xét, tìm kiếm, tập hợp, sao chép, giải quyết yêu cầu cung cấp thông tin thì có thể gia hạn tùy thuộc vào cách thức cung cấp thông tin tối đa không quá 10 hoặc 15 ngày làm việc và phải có văn bản thông báo cho người yêu cầu về việc gia hạn trong thời hạn cung cấp thông tin.
4. Luật Dược
Luật Dược năm 2016 có 14 chương, 116 điều; bổ sung 4 chương: Chính sách của Nhà nước về dược và phát triển công nghiệp dược; hành nghề dược; dược lâm sàng và quản lý giá thuốc; bỏ Chương Quản lý thuốc phải kiểm soát đặc biệt và đưa các nội dung của Chương này vào các phần tương ứng trong Luật.
Luật quy định trách nhiệm cụ thể của Bộ Y tế và Bộ Công Thương. Bộ Y tế quản lý nhà nước về công nghiệp bào chế thuốc, phát triển sản xuất vắc xin, sinh phấm, thuốc dược liệu, thuốc cổ truyền và nguồn dược liệu làm thuốc. Bộ Công Thương quản lý nhà nước về công nghiệp hóa dược. Luật cũng quy định chính sách ưu tiên sử dụng thuốc trong nước đối với thuốc mua từ nguồn vốn nhà nước, quỹ bảo hiếm y tế, nguồn thu từ dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh và các nguồn thu hợp pháp khác của cơ sở y tế công lập.
Bên cạnh đó, Luật Dược năm 2016 quy định nguyên tắc quản lý giá thuốc theo cơ chế thị trường, tôn trọng quyền tự định giá của doanh nghiệp, bảo đảm công khai, minh bạch, Nhà nước chỉ can thiệp nhằm bình ổn giá đối với thuốc thiết yếu khi giá thuốc có biến động bất thường, ảnh hưởng đến ổn định kinh tế - xã hội, đồng thời, phân công cụ thể trách nhiệm quản lý nhà nước về giá thuốc. Cơ chế quản lý giá thuốc rõ ràng hơn, đặc biệt là quy định đàm phán giá đối với thuốc biệt dược, thuốc mới, thuốc trong thời gian còn độc quyền sáng chế, đấu thầu thuốc tập trung và chính sách ưu đãi trong chọn nhà thầu là cơ sở sản xuất thuốc trong nước. Luật không quy định tham khảo giá thuốc tại các nước có điều kiện y tế, thương mại tương tự Việt Nam và không quy định công bố giá tối đa đối với thuốc do ngân sách nhà nước và bảo hiểm y tế chi trả do việc đưa ra tiêu chí các nước có điều kiện y tế tương tự Việt Nam và xây dựng giá thuốc tối đa là không khả thi.
Ngoài ra, Luật Dược năm 2016 có nhiều quy định bổ sung nhằm củng cố và phát triển y học cổ truyền như: Ưu tiên mua thuốc dược liệu, thuốc cổ truyền được sản xuất từ nguồn dược liệu trong nước; dược liệu tươi; thuốc dược liệu, thuốc cổ truyền được sản xuất trên cơ sở nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp quốc gia, cấp bộ hoặc cấp tỉnh; hỗ trợ, tạo điều kiện phát hiện, đăng ký lưu hành, đăng ký bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ có liên quan, kế thừa đối với thuốc cố truyền, thuốc dược liệu cóđề tài khoa học và công nghệ cấp quốc gia, cấpbộ hoặc cấp tỉnh đã được nghiệm thu...
Luật Dược 2016 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2017.
5. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Thuế giá trị gia tăng, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật Quản lý thuế
Về thuế giá trị gia tăng, Luật quy định doanh nghiệp, hợp tác xã mua sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi, thuỷ sản nuôi trồng, đánh bắt chưa chế biến thành các sản phấm khác hoặc chỉ qua sơ chế thông thường bán cho doanh nghiệp, hợp tác xã khác thì không phải kê khai, tính nộp thuế giá trị gia tăng nhưng được khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào. Luật bổ sung thêm quy định dịch vụ chăm sóc người cao tuổi thuộc đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng.
Luật bổ sung quy định miễn thuế đối với hộ gia đình, cá nhân có số thuế sử dụng đất phi nông nghiệp phải nộp hàng năm từ 50.000 đồng trở xuống để cải cách thủ tục hành chính. Luật sửa đổi quy định về tỷ lệ tính tiền nộp chậm tại Luật Quản lý thuế theo mức bằng 0,03%/ngày (thay cho mức 0,05%/ngày) tính trên số tiền thuế nộp chậm để phù hợp với thực tế sản xuất kinh doanh của người nộp thuế, giảm áp lực cho người nộp thuế.
Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016.
6. Luật Điều ước quốc tế
Luật Điều ước quốc tế năm 2016 gồm 10 chương với 84 điều. Việc sửa đổi định nghĩa điều ước quốc tế là điểm mới cơ bản, có tính bao trùm, tác động đến nhiều nội dung trong Luật Điều ước quốc tế. Khái niệm “điều ước quốc tế” được chỉnh sửa phù hợp với quy định của Công ước Viên về Luật Điều ước năm 1969. Theo đó, những văn kiện nào đáp ứng đầy đủ tiêu chí của một điều ước quốc tế sẽ phải tuân theo quy trình đàm phán, ký kết quy định trong Luật. Các tuyên bố, cam kết chính trị nếu không tạo ra quyền và nghĩa vụ theo luật pháp quốc tế thì không được coi là điều ước quốc tế và việc ký kết các văn kiện này sẽ được thực hiện theo quy định chung về thống nhất quản lý hoạt động đối ngoại. Luật đã làm rõ quy trình, thủ tục để thực hiện thẩm quyền của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về lĩnh vực điều ước quốc tế; cụ thể hóa khái niệm “điều ước quốc tế về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” và “điều ước quốc tế về tư cách thành viên của Việt Nam tại tổ chức quốc tế và khu vực quan trọng”.
Để phục vụ yêu cầu đối ngoại và hội nhập, Luật Điều ước quốc tế năm 2016 bổ sung một chương về trình tự, thủ tục rút gọn, áp dụng đối với việc ký kết, sửa đổi một số loại điều ước quốc tế theo mẫu hoặc khi có yêu cầu gấp về thời gian. Thủ tục rút gọn không áp dụng đối với các điều ước quốc tế thuộc thẩm quyền phê chuẩn của Quốc hội; những loại điều ước quốc tế quan trọng này phải thực hiện theo quy trình, thủ tục hết sức chặt chẽ.
7. Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu sửa đổi
Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu sửa đổi gồm 22 điều, được bố cục thành 05 chương. Luật bổ sung một số nội dung quy định về thuế chống bán phá giá, chống trợ cấp, thuế tự vệ; sửa đổi nguyên tắc ban hành biểu thuế, thuế suất; sửa đổi thẩm quyền ban hành biểu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và biểu khung thuế xuất khẩu theo hướng: (i) Danh mục nhóm hàng chịu thuế và khung thuế suất thuế xuất khẩu đối với từng nhóm hàng được quy định ngay trong Luật; (ii) Chính phủ quy định mức thuế suất cụ thể đối với từng mặt hàng trong biểu thuế xuất khẩu, biểu thuế nhập khẩu; quy định việc miễn thuế nhập khẩu quy định tại khoản này không áp dụng đối với dự án đầu tư khai thác khoáng sản; dự án sản xuất sản phẩm có tổng giá trị tài nguyên, khoáng sản cộng với chi phí năng lượng chiếm từ 51% giá thành sản phẩm trở lên; dự án sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt...
8. Pháp lệnh Quản lý thị trường
Pháp lệnh đã quy định cụ thể về vị trí, chức năng của lực lượng quản lý thị trường. Lực lượng quản lý thị trường là lực lượng chuyên trách của Nhà nước thực hiện chức năng phòng, chống, xử lý các hành vi kinh doanh hàng hóa nhập lậu; sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm, hàng hóa không rõ nguồn gốc xuất xứ; hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ; hành vi vi phạm pháp luật về chất lượng, đo lường, giá, an toàn thực phẩm, và gian lận thương mại; hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Pháp lệnh quy định rõ về thẻ kiểm tra thị trường, hoạt động kiểm tra, thanh tra chuyên ngành của quản lý thị trường và quyền, trách nhiệm của tổ chức, cá nhân được kiểm tra. Pháp lệnh quy định về cấp, sử dụng, thu hồi, tạm đình chỉ sử dụng thẻ kiểm tra thị trường; quy trình hoạt động kiểm tra; hoạt động thanh tra chuyên ngành của lực lượng quản lý thị trường; quyền của tổ chức, cá nhân được kiểm tra; trách nhiệm của tổ chức, cá nhân được kiểm tra.
Việc luật hóa trình tự, thủ tục kiểm tra việc tuân thủ pháp luật của các chủ thể kinh doanh trên thị trường nhằm công khai, minh bạch hóa hoạt động của quản lý thị trường đảm bảo tính rõ ràng, minh bạch và tăng cường cải cách hành chính đối với quy trình kiểm tra của quản lý thị trường; bảo đảm nguyên tắc lực lượng quản lý thị trường thực hiện hoạt động kiểm tra, xử phạt vi phạm hành chính theo quy định pháp luật; bảo vệ quyền và lợi ích họp pháp cả tổ chức, cá nhân trước hoạt động kiểm tra không đúng quy định pháp luật của lực lượng quản lý thị trường. Việc quy định quyền và trách nhiệm của tổ chức, cá nhân được kiểm tra nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân được kiểm tra, đảm bảo quyên tự do kinh doanh của các tổ chức, cá nhân theo Hiến pháp và pháp luật và hạn chế tiêu cực trong hoạt động kiểm tra của quản lý thị trường cũng như ngăn chặn các vi phạm pháp luật khác trong quá trình kiểm tra đối với tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ trên thị trường góp phần thúc đẩy môi trường đầu tư, kinh doanh lành mạnh.
9. Nghị quyết của Quốc hội phê chuẩn công hàm thỏa thuận về cấp thị thực giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Hợp chúng quốc Hoa Kỳ
Theo quy định của phía Hoa Kỳ, công dân Việt Nam nhập cảnh Hoa Kỳ với mục đích du lịch, hội thảo, hội nghị... được phía Hoa Kỳ cấp thị thực thời hạn 01 năm và cho phép nhập, xuất cảnh nhiều lần.
Trên cơ sở có đi có lại, Việt Nam cũng tăng thời hạn cấp thị thực cho công dân Hoa Kỳ đối với một số mục đích nhập cảnh lên tới 01 năm với giá trị nhập cảnh nhiều lần (thay vì cấp thị thực có giá trị 03 tháng hoặc 06 tháng như hiện nay). Việc Việt Nam tăng thời hạn thị thực cấp cho công dân Hoa Kỳ lên 01 năm cũng sẽ thúc đẩy hợp tác kinh tế - thương mại, đầu tư với Hoa Kỳ, trong khi đó không làm thay đổi quy trình cấp thị thực và thời hạn lưu trú của công dân Hoa Kỳ mỗi lần nhập cảnh Việt Nam vì các nội dung này vẫn được áp dụng theo quy định của pháp luật Việt Nam. Ngoài ra, mỗi nước có thể rút ngắn thời hạn thị thực và số lần nhập cảnh của các trường hợp cụ thể theo luật pháp và quy định hiện hành.