Thứ hai 17/11/2025 23:32
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Bán tài sản đấu giá thi hành án – Một số vấn đề về lý luận và thực tiễn

Đây là quy định nền tảng về vấn đề xử lý tài sản kê biên bán đấu giá không thành một cách chung nhất với hai nội dung đặt ra cần giải quyết là, tài sản bán không được thì được định giá lại để tiếp tục bán đấu giá và sự kiện bán đấu giá không thành xuất hiện quyền được nhận và nghĩa vụ phải nhận tài sản kê biên bán đấu giá để cấn trừ nợ của người được thi hành án.

Bán đấu giá là giai đoạn cuối cùng và quan trọng trong quá trình xử lý tài sản của người phải thi hành án để bảo đảm việc thi hành án. Khi một tài sản cưỡng chế, kê biên được đưa ra bán công khai trong thời hạn nhất định, quá thời hạn thông báo mà không có người đăng ký mua hoặc có một hoặc nhiều người đăng ký đấu giá, nhưng cuối cùng không ai đồng ý mua, thì tài sản đó được xem là bán đấu giá không thành. Việc tổ chức bán đấu giá có nội dung khá rộng, bài viết này, chúng tôi chỉ đề cập đến cách xử lý tài sản kê biên, đấu giá không thành.

1. Quy định pháp luật về xử lý việc bán đấu giá không thành

Điều 34 Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1993 quy định về bán đấu giá tài sản đã kê biên: “… Tài sản không bán được thì được định giá lại để tiếp tục bán đấu giá.

Đối với tài sản không bán được, chấp hành viên yêu cầu người được thi hành án nhận; nếu người được thi hành án không nhận thì chấp hành viên trả tài sản cho người phải thi hành án và quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế khác…”1

Đây là quy định nền tảng về vấn đề xử lý tài sản kê biên bán đấu giá không thành một cách chung nhất với hai nội dung đặt ra cần giải quyết là, tài sản bán không được thì được định giá lại để tiếp tục bán đấu giá và sự kiện bán đấu giá không thành xuất hiện quyền được nhận và nghĩa vụ phải nhận tài sản kê biên bán đấu giá để cấn trừ nợ của người được thi hành án.

Hậu quả của việc không nhận tài sản đấu giá trừ nợ của người được thi hành án làm phát sinh quyền được nhận lại tài sản bị kê biên, bán đấu giá của người phải thi hành án. Sự lựa chọn giải pháp kê biên tài sản khác là quyền của cơ quan thi hành án.

Điểm 8 Điều 17 Nghị định số 69/1993/NĐ-CP ngày 18/10/1993 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1993 đã khẳng định lại lần nữa nội dung quy định của pháp lệnh, cụ thể: “Đối với tài sản không bán được, chấp hành viên yêu cầu người được thi hành án nhận; nếu người đó không nhận, thì chấp hành viên trả tài sản cho người phải thi hành án và quyết định áp dụng biện pháp trừ vào thu nhập hoặc trừ vào tài sản khác của người phải thi hành án đang do người khác giữ, hoặc kê biên tài sản khác nếu có”2

Với quy định xử lý tài sản kê biên không bán được như trên đã phát sinh một số vấn đề như: Số lần được giảm giá tài sản là bao nhiêu thì hợp lý, mỗi lần giảm bao nhiêu phần trăm là vừa phải, người được thi hành án có bị ép phải nhận tài sản kê biên để trừ nợ không sau khi tài sản kê biên được giảm giá hai lần, việc người được thi hành án không nhận tài sản bán đấu giá trừ nợ, thì tài sản được trả lại cho người phải thi hành án có vội vã quá không, xử sự như vậy có hợp lý không. Chúng tôi cho rằng, quy định như vậy là quá sơ khai, còn nợ quá nhiều nghi vấn chưa giải quyết thấu đáo.

Đến Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004, quan điểm xử lý tài sản kê biên không bán được vẫn giống như Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1993; có chăng, quy định cụ thể hơn về mức giá tối đa được phép giảm…3

Điều 104 Luật Thi hành án năm 2008 quy định: “Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày bán đấu giá không thành, mà đương sự không yêu cầu định giá lại, thì chấp hành viên ra quyết định giảm giá tài sản để tiếp tục bán đấu giá. Mỗi lần giảm giá không quá mười phần trăm giá đã định.

Trường hợp giá tài sản đã giảm thấp hơn chi phí cưỡng chế mà người được thi hành án không nhận tài sản để trừ vào số tiền được thi hành án, thì tài sản được trả lại cho người phải thi hành án”.

Ngoài ra, các nghị định như Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13/07/2009 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều của Luật Thi hành án dân sự năm 2008; Nghị định số 125/2013/NĐ-CP ngày 14/10/2013 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13/07/2009 cũng quy định về xử lý việc bán đấu giá không thành. Bên cạnh đó, ngày 23/01/2014, Bộ Tư pháp lại có Công văn số 224 tiếp tục hướng dẫn cụ thể một số vướng mắc về nghiệp vụ thi hành án.

Như vậy, đến thời điểm này, nếu chỉ tính riêng các văn bản luật chuyên ngành quy định về xử lý tài sản bán đấu giá không thành thì đã có 01 văn bản luật, 02 pháp lệnh (chỉ tính từ Pháp lệnh Thi hành án năm 1993), 03 nghị định, 02 công văn hướng dẫn.

Qua nội dung các văn bản quy định, hướng dẫn nội dung xử lý việc bán đấu giá tài sản kê biên không thành, chúng tôi quan tâm mấy nội dung như sau:

Một là, tất cả các văn bản luật đều thống nhất tài sản kê biên có giá trị được bán công khai (bán đấu giá), trường hợp bán không được thì giảm giá bán tiếp.

Hai là, những văn bản luật trước khi có Luật Thi hành án dân sự năm 2008, thì có những quy định thể hiện tâm lý xử lý tài sản kê biên không bán được của nhà làm luật một cách quá vội vàng (giảm giá hai lần giao cho người được thi hành án nhận để trừ nợ, không nhận, trả đơn yêu cầu thi hành án), thể hiện sự nóng vội trong việc sớm chấm dứt vụ án một cách miễn cưỡng, mà không xem xét, căn cứ vào các nguyên nhân khách quan, chủ quan trong việc chưa bán được tài sản kê biên (Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1993 không quy định số lần giảm giá; Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 quy định sau hai lần giảm giá thì giao tài sản trừ nợ). Sự vội vàng này theo tác giả là một tâm lý tiêu cực, là một bất cập.

Bà là, những quy định tính từ Luật Thi hành án dân sự năm 2008 về sau, thì quy định việc xử lý tài sản kê biên không bán được lại phải được giảm giá bán đến cùng và chỉ dừng lại khi giá trị tài sản được giảm bằng với chi phí đã bỏ ra trong quá trình cưỡng chế, kê biên, bán đấu giá. Đây cũng là một quy định bất cập khác mà Luật Thi hành án dân sự năm 2008 vấp phải.

Quan điểm phải giảm giá tài sản cưỡng chế, kê biên đến cùng quy định trong Luật Thi hành án dân sự năm 2008 cũng là quan điểm tiêu cực không kém gì quan điểm vội vàng buộc người được thi hành án nhận tài sản xử lý chưa được để trừ nợ của các Pháp lệnh trước Luật.

Những bất cập có thể được mô tả như sau:

- Chưa xem xét thấu đáo nguyên nhân bán đấu giá không thành. Thông thường một tài sản được định giá đúng quy trình, trong quá trình tổ chức bán đấu giá mà phải giảm đến một nửa hoặc hơn một nửa… nhưng vẫn bán không được, thì quy luật về giá trị của tài sản không còn bảo đảm. Hay nói cách khác, trong trường hợp này, giá trị của tài sản không phải là nguyên nhân dẫn đến việc không bán được tài sản, việc tài sản không bán được là do nhiều nguyên nhân khác nhau.

- Quan điểm “buộc” chấp hành viên phải truy đuổi đến cùng một tài sản như vậy là hoàn toàn sai lầm, không thể xử lý đến cùng một tài sản để cuối cùng chỉ nhằm thu hồi về số tiền bằng với chi phí đã bỏ ra. Xét về mặt kinh tế thì việc làm như vậy là phi kinh tế, xét về mặt nhân đạo của nhà nước thì không bảo đảm, xét về mặt thực tiễn thì đã bỏ qua những tài sản khác (trong quá trình thi hành án thì chấp hành viên có quyền xử lý bất kỳ tài sản nào nếu việc xử lý thuận lợi nhất), xét về mặt tâm lý thì chấp hành viên bị sa lầy hồ sơ thi hành án.

- Sau khi ban hành Nghị định số 125/2013/NĐ-CP bổ sung Nghị định số 58/2009/NĐ-CP, sự việc vẫn có chỗ vướng mắc nên phải ban hành tiếp một số công văn hướng dẫn thêm. Tuy vậy, việc này vẫn còn có chỗ vướng mắc.

Ví dụ: Ông A phải nộp trả nợ cho ông B 400 triệu đồng, cơ quan thi hành án tổ chức kê biên nhà của ông A, tổ chức bán đấu giá bảo đảm thi hành án. Quá trình đấu giá đã giảm giá 4 lần nhưng không có người đăng ký mua; người phải thi hành án yêu cầu thẩm định lại giá, khi có giá mới, cơ quan thi hành án tiếp tục tổ chức bán đấu giá theo giá mới, người được thi hành án yêu cầu được nhận tài sản để trừ nợ. Trong trường hợp này, có các quan điểm như sau:

Quan điểm thứ nhất cho rằng, người được thi hành án yêu cầu nhận tài sản là đúng, cơ quan thi hành án phải làm thủ tục cho họ nhận tài sản để trừ nợ vì căn cứ Nghị định số 125/2013/NĐ-CP, trường hợp này đã giảm giá đến bốn lần theo quy định của pháp luật, thủ tục thi hành án là một quá trình, việc định giá lại không làm mất hiệu lực của những lần giảm giá trước đó.

Quan điểm thứ hai thì cho rằng, trong trường hợp này, không thể cho người được thi hành án nhận tài sản trừ nợ theo quy định tại Nghị định số 125/2013/NĐ-CP, vì dù rằng, xét quá trình tổ chức bán đấu giá thì đã hơn ba lần giảm giá, nhưng trong quá trình bán đấu giá, người phải thi hành án yêu cầu thẩm định lại giá, tài sản có sự thay đổi về giá trị, do đó, quy định sau ba lần giảm giá nếu không bán được tài sản thì yêu cầu người được thi hành án nhận tài sản trừ nợ được hiểu là ba lần giảm giá liên tục ở một giá trị nhất định đã được thông báo. Hay nói cách khác, những lần giảm giá trước khi tổ chức xác định lại giá trị tài sản kê biên bán đấu giá không thành không tính vào số lần giảm giá chung làm căn cứ cho người được thi hành án nhận tài sản kê biên trừ nợ.

Chúng tôi đồng tình với quan điểm thứ nhất và cho rằng, Nghị định số 125/2013/NĐ-CP quy định sau ba lần giảm giá nhưng không có người đăng ký mua tài sản kê biên, bán đấu giá thì người được thi hành án có quyền yêu cầu được nhận tài sản đấu giá để cấn trừ nợ. Việc giảm giá đến ba lần tính trên tổng số lần giảm giá trong quá trình bán đấu giá không phân biệt các lần giảm giá trước, sau khi giá trị tài sản kê biên có sự thay đổi.

2. Nhận xét

Trong cuộc sống, một tài sản được chào bán nhiều lần, nhưng không bán được, cách xử lý như thế nào là vấn đề quan tâm đối với người bán tài sản đó. Ví như, người nông dân mang mớ rau ra chợ bán, đến trưa, đến chiều không có người mua, thì việc xử lý như thế nào đối với mớ rau đó, cần được cân nhắc, có thể để lại ngày hôm sau mang ra chợ bán tiếp, có thể để lại nhà sử dụng, cũng có thể phải bỏ đi…, tuyệt nhiên không thể mang ra chợ bán đến ngày thứ ba, thứ tư, vì chi phí cho việc bán nó chắc chắn lớn hơn giá trị bản thân mớ rau đó rất nhiều. Cũng vậy, khi doanh nhân chào hàng một bất động sản, việc xử lý như thế nào đối với bất động sản đó khi nhiều lần không bán được là vấn đề cần suy nghĩ. Có thể, doanh nhân không bán nữa, mà dùng tài sản đó vào việc khác, có thể giảm giá nhiều lần để tiếp tục bán, thậm chí có khi không còn quan tâm đến việc mua bán bất động sản đó nữa, tuyệt nhiên không có doanh nhân nào đem tài sản bán chỉ để thu hồi chi phí đã bỏ ra bán chúng.

Theo các quy định của pháp luật thì:

Đối với quy định pháp luật trước khi có Luật Thi hành án dân sự năm 2008 ra đời, thì việc xử lý tài sản đấu giá không bán được quá “nghiêm khắc”. Theo đó, sau hai lần giảm giá mà tài sản kê biên không bán được, giao cho người được thi hành án nhận để trừ nợ, trường hợp người được thi hành án không nhận, thì trả lại đơn yêu cầu thi hành án và xem xét kê biên tài sản khác để bảo đảm thi hành án. Chỉ hai lần giảm giá không có người mua, đã phát sinh nghĩa vụ nhận tài sản của người được thi hành án, không nhận thì trả đơn là quá nghiêm khắc.

Đối với quy định pháp luật từ khi có Luật Thi hành án ra dân sự năm 2008 ra đời, thì việc xử sự đối với tài sản kê biên không bán được lại có chiều hướng đi ngược lại với quan điểm của quy định pháp luật trước đó, cụ thể là “bán không được thì giảm giá đến cùng”. Đây cũng là quan điểm quá nghiêm khắc.

Sự nghiêm khắc của quy định pháp luật dẫn đến hệ lụy: Biểu hiện tính vội vàng xử lý tài sản kê biên của quy định pháp luật kéo theo nhiều hệ lụy bất lợi khác cho các bên đương sự; Biểu hiện tính thụ động, tiêu cực trong việc xử lý tài sản kê biên không bán được; Các quy định của pháp luật chưa dự liệu được tình huống:

- Khi đang xử lý một tài sản (có thể bán được hoặc chưa bán được), chấp hành viên có thể áp dụng biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế để “giữ chân” tài sản khác của người phải thi hành án không? Thực tiễn cho thấy, khi chấp hành viên “cố” xử lý một tài sản mà chưa biết có thể xử lý hiệu quả đến đâu, thì người phải thi hành án cũng có thể nhanh chân tẩu tán những tài sản khác, nếu không có biện pháp ngăn chặn hoặc kê biên xử lý, thì việc chứng minh, xác minh đối với các loại tài sản bị tẩu tán, việc xử lý hết sức khó khăn, phức tạp

- Tài sản giảm giá đến bằng chi phí cưỡng chế, nhưng vẫn không bán được và người được thi hành án cũng không nhận để trừ nợ, thì được trả lại cho người phải thi hành án, sau đó có thể kê biên, bán đấu giá trở lại chính tài sản đó không, thời gian bao lâu thì được kê biên trở lại.

3. Kiến nghị

Từ quy định, nhận định và phân tích về nội dung xử lý tài sản kê biên, bán đấu giá không thành như trên, chúng tôi kiến nghị mấy vấn đề như sau:

Thứ nhất, chúng tôi đồng tình với cách giải quyết về xử lý tài sản kê biên không bán được theo Nghị định 125/2013/NĐ-CP, cụ thể là, sau ba lần giảm giá mà không có người mua, thì giao tài sản cho người được thi hành án theo giá đã giảm, để cấn trừ nợ là vừa phải, hợp lý, hợp tình. Trường hợp người được thi hành án không đồng ý nhận tài sản theo giá đã giảm để cấn trừ nợ, thì cần quy định chi tiết:

- Cơ quan thi hành án tiếp tục giảm giá thêm hai lần nữa, nếu tài sản vẫn không bán được, thì tiếp tục yêu cầu người được thi hành án nhận để trừ nợ, trường hợp người được thi hành án vẫn không đồng ý nhận, mà người phải thi hành án cũng không còn tài sản nào khác, thì cơ quan thi hành án quyết định trả đơn yêu cầu thi hành án lại cho người được thi hành án, quyết định trả lại tài sản cho người phải thi hành án, sau khi đã thu hồi chi phí cưỡng chế thi hành án.

- Trường hợp người phải thi hành án có tài sản khác có giá trị bảo đảm việc thi hành án, thì chấp hành viên tiếp tục kê biên tài sản đó để thi hành án; tài sản đã kê biên được trả lại cho người phải thi hành án khi đã thu hồi các khoản chi phí cưỡng chế.

Thứ hai, trong quá trình kê biên, xử lý một tài sản, chấp hành viên có quyền áp dụng các biện pháp bảo đảm liên quan đến tài sản và nhân thân người phải thi hành án, để duy trì điều kiện thi hành án, bảo đảm cho việc thi hành bản án.

Bùi Thái Bình

Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hàm Tân, Bình Thuận

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số tại Bộ, ngành Tư pháp - Thực trạng và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số tại Bộ, ngành Tư pháp - Thực trạng và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Bộ Tư pháp đã trang bị, bổ sung, ứng dụng các công nghệ mới như máy chủ ảo hóa, lưu trữ SAN; máy chủ ứng dụng, máy chủ cơ sở dữ liệu cho Trung tâm dữ liệu điện tử để đáp ứng yêu cầu quản lý, vận hành và hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp.
Công tác hành chính tư pháp - Thành tựu và định hướng phát triển trong thời gian tới

Công tác hành chính tư pháp - Thành tựu và định hướng phát triển trong thời gian tới

Bài viết về những thành tựu nổi bật và định hướng phát triển công tác hành chính tư pháp trong thời gian tới.
Phát huy vai trò là diễn đàn khoa học trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Phát huy vai trò là diễn đàn khoa học trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (Tạp chí) là cơ quan ngôn luận của Bộ Tư pháp, có chức năng thông tin về khoa học pháp lý, thông tin lý luận, nghiệp vụ và thực tiễn trong xây dựng, thi hành pháp luật và công tác tư pháp của Bộ, ngành Tư pháp; tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước theo quy định pháp luật; đồng thời, là diễn đàn trao đổi học thuật, thực tiễn và chính sách trong lĩnh vực pháp luật[1].
Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng bầu cử quốc gia

Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng bầu cử quốc gia

Để bảo đảm cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XVI và đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2026-2031 được tiến hành dân chủ, đúng pháp luật và thống nhất trên phạm vi cả nước, Hội đồng bầu cử quốc gia (HĐBCQG) được thành lập, giữ vai trò tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội (ĐBQH); chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân (HĐND). Việc tìm hiểu cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của HĐBCQG có ý nghĩa quan trọng, góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và cử tri thực hiện quyền làm chủ của mình, đồng thời giúp cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan thực hiện tốt nhiệm vụ trong công tác bầu cử.
Thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới

Thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới

Bài viết phân tích một số thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới của Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính, Bộ Tư pháp.
Trợ giúp pháp lý - Điểm tựa pháp lý cho tuổi vị thành niên lầm lỡ

Trợ giúp pháp lý - Điểm tựa pháp lý cho tuổi vị thành niên lầm lỡ

Lứa tuổi vị thành niên là giai đoạn các em đang hình thành nhân cách, dễ bồng bột, thiếu kỹ năng kiểm soát cảm xúc và nhận thức pháp luật còn hạn chế. Nếu không được định hướng, các em rất dễ sa vào những hành vi vi phạm pháp luật đáng tiếc. Chỉ một phút nóng giận, một quyết định bồng bột… cũng đủ khiến tuổi trẻ phải trả giá bằng cả những tháng ngày sau song sắt. Thế nhưng, trong câu chuyện buồn ấy, vẫn có một điểm sáng nhân văn - đó là bàn tay nâng đỡ của trợ giúp pháp lý miễn phí, để một thiếu niên lầm lỡ có cơ hội sửa sai và làm lại từ đầu.
Lịch trình pháp lý cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XVI và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2026 - 2031

Lịch trình pháp lý cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XVI và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2026 - 2031

Bầu cử đại biểu Quốc hội (ĐBQH) và đại biểu Hội đồng nhân dân (HĐND) là sự kiện chính trị trọng đại, được tiến hành theo trình tự chặt chẽ, bảo đảm dân chủ, bình đẳng và đúng pháp luật. Trong tiến trình ấy, Luật Bầu cử ĐBQH và đại biểu HĐND (Luật Bầu cử) quy định cụ thể các mốc thời gian thực hiện. Đây vừa là cơ sở bảo đảm tính logic, vừa là căn cứ cho sự minh bạch và thống nhất trong toàn bộ quy trình. Lịch trình pháp lý được xác định trên cơ sở ngày bầu cử đã được ấn định cho mỗi kỳ bầu cử.
Dấu mốc quan trọng tạo lập khung pháp lý cho thị trường tài sản mã hóa

Dấu mốc quan trọng tạo lập khung pháp lý cho thị trường tài sản mã hóa

Ngày 09/9/2025, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 05/2025/NQ-CP về việc triển khai thí điểm thị trường tài sản mã hóa tại Việt Nam. Nghị quyết được ban hành đánh dấu bước đi quan trọng tạo khung khổ pháp lý để quản lý, kiểm soát chặt chẽ, minh bạch hóa thị trường tài sản mã hóa, hướng tới định hình thị trường tài sản số.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Cần kịp thời hoàn thiện và tổ chức thực hiện hiệu quả chính sách pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Cần kịp thời hoàn thiện và tổ chức thực hiện hiệu quả chính sách pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc triển khai Chỉ thị số 30-CT/TW ngày 22/01/2019 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và trách nhiệm quản lý của Nhà nước đối với công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng vẫn còn bộc lộ một số tồn tại, hạn chế nhất định, đòi hỏi phải kịp thời hoàn thiện chính sách pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
14 trường hợp được miễn học phí từ năm học 2025-2026

14 trường hợp được miễn học phí từ năm học 2025-2026

Đây là một trong những điểm mới đáng chú ý trong chính sách miễn, giảm, hỗ trợ học phí, hỗ trợ chi phí học tập của Chính phủ.
HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ Ở HÀ TĨNH THÁCH THỨC VÀ YÊU CẦU ĐỔI MỚI TỪ THỰC TIỄN

HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ Ở HÀ TĨNH THÁCH THỨC VÀ YÊU CẦU ĐỔI MỚI TỪ THỰC TIỄN

Trợ giúp pháp lý là chính sách nhân văn sâu sắc, thể hiện trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, đặc biệt là những người yếu thế trong xã hội, người có công với cách mạng. Đồng thời, đây cũng là công cụ quan trọng nhằm bảo đảm công lý, để mọi người dân đều được tiếp cận pháp luật bình đẳng, góp phần hiện thực hóa mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Giải pháp khắc phục vướng mắc trong sử dụng Phần mềm đăng ký, quản lý hộ tịch phục vụ vận hành chính quyền địa phương 02 cấp

Giải pháp khắc phục vướng mắc trong sử dụng Phần mềm đăng ký, quản lý hộ tịch phục vụ vận hành chính quyền địa phương 02 cấp

Ngày 15/8/2025, Bộ Tư pháp đã có Văn bản số 5006/BTP-HCTP về giải pháp khắc phục các khó khăn, vướng mắc trong sử dụng Phần mềm đăng ký, quản lý hộ tịch phục vụ vận hành chính quyền địa phương 02 cấp gửi Văn phòng Trung ương Đảng, trong đó, xác định rõ nguyên nhân và những giải pháp để kịp thời khắc phục các khó khăn, vướng mắc.
Thẩm quyền quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính, biện pháp đưa người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

Thẩm quyền quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính, biện pháp đưa người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

Theo Pháp lệnh số 08/2025/UBTVQH15 được Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua ngày 27/6/2025, kể từ ngày 01/7/2025, Tòa án nhân dân khu vực có thẩm quyền theo lãnh thổ tiếp nhận nhiệm vụ xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân, đưa người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cản trở hoạt động tố tụng mà Tòa án nhân dân cấp huyện đang giải quyết.
Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 3, tỉnh Lào Cai quyết tâm bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý cho người dân sau sáp nhập

Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 3, tỉnh Lào Cai quyết tâm bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý cho người dân sau sáp nhập

Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 3, tỉnh Lào Cai được thành lập ngày 01/7/2025 trên cơ sở hợp nhất Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 3 huyện Văn Bàn (cũ) và Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 4 huyện Bảo Yên (cũ). Từ khi được thành lập, Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 3 thích ứng mô hình chính quyền địa phương hai cấp, bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý cho người dân sau sáp nhập.
Xác định đối tượng trợ giúp pháp lý là người dân tộc thiểu số vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn khi triển khai chính quyền địa phương hai cấp

Xác định đối tượng trợ giúp pháp lý là người dân tộc thiểu số vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn khi triển khai chính quyền địa phương hai cấp

Sau khi thực hiện sắp xếp tổ chức bộ máy chính quyền địa phương hai cấp, việc xác định đối tượng trợ giúp pháp lý người dân tộc thiểu số vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn phát sinh một số bất cập cần có giải pháp tháo gỡ.

Theo dõi chúng tôi trên:

he-thong-benh-vien-quoc-te-vinmec
nha-hang-thai-village
delta-group
khach-san-ladalat
trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
truong-dai-hoc-y-duoc-dai-hoc-quoc-gia-ha-noi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm
cong-ty-co-phan-loc-hoa-dau-binh-son
sofitel-legend-metropole-ha-noi