
1. Đặt vấn đề
Khi Nhà nước có nhu cầu sử dụng phần đất thuộc quyền sử dụng của hộ gia đình, cá nhân hay những chủ thể khác, Nhà nước có quyền thu hồi phần đất đó theo quy định của pháp luật đất đai hiện hành và thực hiện bồi thường về đất cho hộ gia đình, cá nhân khi thực hiện thu hồi đất. Tuy nhiên, trên thực tế, vẫn còn tình trạng khiếu nại, tranh chấp phát sinh từ việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.
Theo báo cáo của Đoàn giám sát “Việc thực hiện pháp luật về tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo” từ ngày 01/7/2016 đến ngày 01/7/2021 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, tỷ lệ đơn thư liên quan đến quá trình thu hồi đất, thực hiện chế độ bồi thường giải phóng mặt bằng trên 70% trong tổng lượng đơn thư hằng năm[1]; vấn đề khiếu nại đông người, khiếu nại vượt cấp, kéo dài, gây mất ổn định trật tự liên quan đến công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư còn khá phổ biến, tiềm ẩn nguy cơ gây mất ổn định, trật tự an toàn xã hội và dễ hình thành các “điểm nóng” về an ninh chính trị. Do đó, việc làm rõ bản chất của bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất để tìm ra phương hướng, giải pháp giải quyết hữu hiệu những mâu thuẫn và bảo đảm các quy định của pháp luật bồi thường về đất được thực thi hiệu quả, bảo vệ được lợi ích của người sử dụng đất, lợi ích của Nhà nước và xã hội, góp phần làm hạn chế việc khiếu nại, giảm thiểu nguy cơ phát sinh những bất ổn về trật tự an toàn xã hội.
2. Bản chất của việc bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất
Hiện nay, khi thu hồi đất, Nhà nước sẽ thực hiện việc bồi thường về đất cho người sử dụng đất hoặc được bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại theo quy định tại Điều 75, Điều 76 Luật Đất đai năm 2013. Đây là trách nhiệm pháp lý của Nhà nước đối với quyền và lợi ích hợp pháp của người bị thu hồi đất, việc bồi thường này nhằm trả lại tất cả những giá trị thiệt hại đối với người bị thiệt hại do việc thu hồi đất gây ra một cách công bằng, tương xứng[2]. Kế thừa quy định của Luật Đất đai 2013, Điều 95 Luật Đất đai năm 2024 đã sửa đổi, bổ sung 02 trường hợp đủ điều kiện được bồi thường về đất, gồm: (i) Nhận chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật từ người có quyền sử dụng đất hợp pháp nhưng chưa hoàn thành thủ tục đăng ký đất đai; (ii) Được sử dụng đất theo thỏa thuận trong hợp đồng thế chấp để xử lý nợ; văn bản công nhận kết quả đấu giá quyền sử dụng đất mà người trúng đấu giá đã hoàn thành nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật.
Như vậy, để việc bồi thường về đất bảo đảm dân chủ, khách quan, công bằng, công khai, kịp thời và đúng theo quy định của pháp luật đất đai khi Nhà nước thu hồi đất; phù hợp với truyền thống văn hóa, phong tục, tập quán của cộng đồng dân cư nơi có đất thu hồi[3], đòi hỏi phải xác định rõ bản chất của việc bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất của hộ gia đình, cá nhân.
2.1. Bồi thường về đất nhằm bảo đảm chế độ sở hữu toàn dân về đất đai đã được Hiến định
Theo Điều 53 Hiến pháp năm 2013 thì đất đai là “tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý” và được cụ thể hóa tại các điều 1, 2 và 12 của Luật Đất đai năm 2024, đặc biệt, Điều 12 quy định về sở hữu đất đai ghi nhận: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất”. Quyền sử dụng đất được Nhà nước bảo hộ thông qua những quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
Như vậy, người sử dụng đất không phải là chủ sở hữu đối với đất đai được giao, mà chỉ là người có quyền sử dụng đất. Ngoài các quyền thông thường như chiếm hữu, sử dụng, thì người sử dụng đất còn có các quyền định đoạt khác, như: Cho thuê, thừa kế, chuyển nhượng, thế chấp, góp vốn. Quyền sử dụng đất mà Nhà nước giao cho hộ gia đình, cá nhân, tổ chức không còn là quyền năng bình thường mà trở thành một loại quyền sở hữu hạn chế[4]. Những ghi nhận này thể hiện tính đặc thù của pháp luật Việt Nam về đất đai, bảo đảm thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân; tạo khoản thu cho ngân sách nhà nước thông qua việc thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất, các loại thuế liên quan đến đất đai và các loại phí, lệ phí quản lý và sử dụng đất[5]... qua đó Nhà nước điều tiết, vận hành nền kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi cho từng vùng, ngành, lĩnh kinh tế phát triển thống nhất trên phạm vi toàn quốc. Tuy vậy, trong quá trình thực hiện quyền năng đặc thù đó, Nhà nước cần quan tâm sâu sắc và thích đáng đến việc bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất của hộ gia đình, cá nhân, một phần cũng nhằm bù đắp những công sức tu bổ, bảo vệ, cải tạo, lao động làm dồi giàu thêm tính năng của đất đai và một phần giúp sức cho người dân phải chuyển đổi nơi ăn, chốn ở, thay đổi việc làm, điều kiện, thói quen sống làm ổn định tình hình an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội cũng như góp phần “công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội theo Hiến pháp và pháp luật”[6].
2.2. Bồi thường về đất xuất phát từ hoạt động hợp pháp của cơ quan nhà nước
Theo pháp luật đất đai, Nhà nước chỉ có trách nhiệm bồi thường những thiệt hại phát sinh trực tiếp từ hoạt động thu hồi đất của Nhà nước đối với người sử dụng đất, bao gồm: Bồi thường bằng đất hoặc bồi thường bằng tiền. Việc bồi thường của Nhà nước trong trường hợp này không xuất phát từ yếu tố lỗi và cũng không phải là hành vi trái luật[7], mà việc bồi thường này chính là bù đắp tổn thất hay thiệt hại về quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất do hoạt động thu hồi đất của Nhà nước gây ra[8]. Điều 75 Luật Đất đai năm 2013 quy định, không phải bất cứ người sử dụng đất nào khi Nhà nước thu hồi đất cũng được bồi thường mà chỉ những chủ thể sử dụng đất thỏa mãn các điều kiện do pháp luật đất đai quy định mới được Nhà nước bồi thường khi bị thu hồi đất. Theo quy định của pháp luật đất đai thì bồi thường về đất là việc Nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất thu hồi cho người sử dụng đất[9], giá trị quyền sử dụng đất có thể là giá trị bằng tiền, bằng vật chất khác do các quy định của pháp luật điều tiết hoặc do thỏa thuận giữa các chủ thể đối với một diện tích đất xác định. Kế thừa quy định này, Luật Đất đai năm 2024 đã mở rộng, phát triển các điều kiện được bồi thường đối với từng loại đất được thu hồi quy định từ Điều 95 đến Điều 100; đồng thời xác định 04 trường hợp không được bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất (Điều 101). Trong đó, quy định cụ thể 10 loại đất thuộc “đất do cơ quan, tổ chức của Nhà nước quản lý” để xác định không thuộc trường hợp phải bồi thường khi thu hồi đất (Điều 217), các trường hợp thu hồi đất do vi phạm pháp luật đất đai (Điều 81), các trường hợp thu hồi đất do chấm dứt việc sử dụng đất theo pháp luật (khoản 1 Điều 82) và thu hồi khi người sử dụng đất giảm không còn nhu cầu sử dụng đất và tự nguyện có đơn trả lại đất.
Bồi thường về đất trong pháp luật đất đai không giống với bồi thường trong lĩnh vực dân sự là các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần[10]. Trường hợp không thỏa thuận được thì một trong các bên có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật dân sự. Người yêu cầu bồi thường phải chứng minh được những tổn thất về vật chất và tinh thần do bên gây thiệt hại tạo ra, căn cứ áp dụng bồi thường được xác định bởi các yếu tố: Phải là hành vi trái pháp luật, có thiệt hại xảy ra và việc vi phạm là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến thiệt hại. Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế do có sự thay đổi về tình hình kinh tế - xã hội; sự biến động về giá cả; sự thay đổi về tình trạng thương tật, khả năng lao động của người bị thiệt hại; sự thay đổi về khả năng kinh tế của người có trách nhiệm bồi thường mà mức bồi thường không còn phù hợp với sự thay đổi đó[11]… thì bên bị thiệt hại hoặc bên gây thiệt hại có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền thay đổi mức bồi thường. Đây là quy định có điểm rất khác biệt nhằm bảo đảm được quyền lợi chính đáng của các bên trong pháp luật dân sự mà pháp luật bồi thường về đất chưa đề cập. Do vậy, khi Nhà nước bồi thường về đất cho người sử dụng đất mà nơi ở mới không bảo đảm được yêu cầu “nơi ở mới phải tốt hơn hoặc bằng nơi ở cũ” thì Nhà nước chưa có những biện pháp nào khác để giải quyết và người bị thu hồi đất cũng không có căn cứ pháp lý nào để yêu cầu Nhà nước thực hiện “tốt hơn” việc bồi thường để bảo đảm quyền lợi của mình. Đây cũng chính là nguyên nhân của việc có lúc, có nơi người dân không “đồng thuận chủ trương” khi rơi vào trường hợp bị thu hồi đất.
Từ những phân tích trên cho thấy, mặc dù đều là chủ thể bị thiệt hại, nhưng người bị thiệt hại trong pháp luật dân sự được “nhiều quyền” hơn, những thiệt hại phát sinh trên thực tế đều được yêu cầu bồi thường và được bồi thường khi chứng minh được thiệt hại. Trong khi đó, các thiệt hại được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất chỉ là thiệt hại về đất, còn những thiệt hại vô hình và các thiệt hại thực tế khác chưa được tính đến một cách thỏa đáng do pháp luật chưa có quy định.
2.3. Bồi thường về đất là trách nhiệm pháp lý của Nhà nước do hoạt động thu hồi đất
Theo khoản 5 Điều 3 Luật Đất đai năm 2024, Nhà nước có trách nhiệm “trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất thu hồi cho người có đất thu hồi”, bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người có đất thu hồi. Để việc bồi thường tương xứng với những thiệt hại thì cần xác định được thiệt hại thực tế xảy ra một cách cụ thể nhất. Tuy nhiên, cho đến nay, pháp luật đất đai chưa quy định thế nào là “thiệt hại” khi Nhà nước thu hồi đất, từ đó việc xác định những thiệt hại của người có đất thu hồi có khi chưa “đủ, đúng”, đây là một trong những nguyên nhân xuất hiện khiếu nại của người bị thu hồi đất. Thực tế cho thấy, có rất nhiều thiệt hại mà pháp luật đất đai chưa nhận diện được, đó có thể vừa là thiệt hại hữu hình, vừa là thiệt hại vô hình, đơn cử như: Thiệt hại tinh thần, sức khỏe do thời gian giải phóng mặt bằng kéo dài cũng như lo lắng về đời sống kinh tế trong tương lai, việc thay đổi nghề nghiệp và khả năng ổn định cuộc sống tại nơi ở mới[12]. Hay nói cách khác, những thiệt hại này chưa được pháp luật “định lượng” cụ thể để xác định việc bồi thường.
Bên cạnh đó, việc xác định giá đất để tính bồi thường cũng là vấn đề thường chưa có sự đồng thuận cao của người có đất thu hồi. Luật Đất đai năm 2024 quy định, cơ quan quản lý đất đai cấp tỉnh có trách nhiệm giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức việc xác định giá đất cụ thể... Giá đất cụ thể được áp dụng cho trường hợp tính tiền bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. Luật Đất đai năm 2013 quy định, giá đất của Nhà nước phải “phù hợp với giá đất phổ biến trên thị trường” (khoản 1 Điều 112). Luật Đất đai năm 2024 kế thừa và phát triển “phương pháp định giá đất theo nguyên tắc thị trường”. Việc xác định giá đất tính bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nhằm bảo đảm và hướng đến nguyên tắc quyền sử dụng đất được pháp luật bảo hộ; bảo đảm việc thu hồi đất phải công khai, minh bạch và được bồi thường theo quy định của pháp luật được hiến định tại Điều 54 Hiến pháp năm 2013. Tuy nhiên, thực tế hiện nay việc xác định giá đất phổ biến trên thị trường là rất khó, bởi lẽ, đất đai mang tính cụ thể cao nên giá giao dịch trên thị trường của mỗi thửa đất luôn có sự khác biệt nhất định. Nguyên nhân là trong nhiều trường hợp chưa thực sự bảo đảm tính độc lập, khách quan trong quá trình xác định giá đất; chưa quy định cụ thể việc lựa chọn, áp dụng phương pháp định giá đất; các mốc thời gian trong quá trình xác định giá đất cụ thể chưa được quy định đầy đủ, còn chồng chéo; việc phân cấp thẩm quyền quyết định giá đất cụ thể chưa đúng quy định[13]. Khắc phục những hạn chế này, Luật Đất đai năm 2024 đã có những sửa đổi, bổ sung như: Bỏ quy định về khung giá đất; thực hiện xây dựng bảng giá đất hằng năm, bảng giá đất lần đầu để công bố và áp dụng từ ngày 01/01/2026, sau đó sẽ được điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung và áp dụng từ ngày 01/01 của năm tiếp theo; đối với khu vực đã có bảng giá đất tới từng thửa đất trên cơ sở vùng giá trị, thửa đất chuẩn thì giá đất cụ thể được xác định theo bảng giá đất tại thời điểm định giá đất (Điều 159, Điều 160). Nghị định số 12/2024/NĐ-CP ngày 05/02/2024 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 44/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định về giá đất và Nghị định số 10/2023/NĐ-CP ngày 03/4/2023 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đất đai (Nghị định số 12/2024/NĐ-CP) cũng có những quy định sửa đổi phù hợp với thực tiễn về phương pháp định giá đất, điều kiện áp dụng phương pháp định giá đất, cũng như xác định các yếu tố ảnh hưởng đến giá đất theo hướng “có lợi” hơn cho người sử dụng đất. Tuy nhiên, đối với trường hợp phương án giá đất do cơ quan tài nguyên và môi trường đã trình Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền (cấp tỉnh hoặc cấp huyện được Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ủy quyền) quyết định giá đất cụ thể trước ngày Nghị định số 12/2024/NĐ-CP có hiệu lực thi hành thì Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền quyết định giá đất cụ thể theo phương án đã trình, không áp dụng quy định mới (có hiệu lực từ ngày 05/02/2024)[14]. Đặc biệt, Luật Đất đai năm 2024 đã có thay đổi tiến bộ, phù hợp với nguyện vọng của đa số trường hợp bị thu hồi đất khi quy định: Trước khi thông báo thu hồi đất được ban hành, Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất thu hồi chủ trì phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp, đơn vị, tổ chức thực hiện nhiệm vụ bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và các cơ quan có liên quan, tổ chức họp với người có đất trong khu vực thu hồi để phổ biến, tiếp nhận ý kiến về nội dung kế hoạch bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; dự kiến khu vực tái định cư;… đồng thời quy định rõ Nhà nước chỉ ra quyết định thu hồi đất khi người có đất thu hồi được bố trí tái định cư tại chỗ và đồng ý nhận tiền bồi thường chi phí tạm cư (Điều 87).
Như vậy, để bảo đảm thực hiện đầy đủ trách nhiệm pháp lý của Nhà nước trong việc bồi thường về đất khi thu hồi đất, Luật Đất đai năm 2024 đã có những quy định mới, chặt chẽ hơn và sát với thực tiễn hơn về giá đất để tính bồi thường; việc bồi thường về đất được quy định thực hiện kịp thời, có lợi cho người dân hơn. Tuy nhiên, việc “tính toán”, hướng dẫn giải quyết thỏa đáng những thiệt hại phi vật chất mà người sử dụng đất gặp phải khi Nhà nước thu hồi đất vẫn còn bỏ ngỏ rất cần Chính phủ có những hướng dẫn tổ chức thi hành.
2.4. Bồi thường về đất nhằm bù đắp thiệt hại cho người có đất thu hồi
Theo quy định của pháp luật đất đai, Nhà nước đại diện toàn dân thực hiện quyền sở hữu, còn tổ chức, hộ gia đình và cá nhân chỉ có quyền sử dụng đất, được pháp luật bảo hộ quyền tài sản đối với đất đai đang sử dụng. Để bù đắp những thiệt hại từ việc thu hồi đất, Nhà nước đã có những quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư dành cho người có đất thu hồi. Trên thực tế, những chính sách này ngày càng được hoàn thiện và tạo điều kiện cho người có đất thu hồi có cuộc sống tốt hơn theo nguyên tắc bảo đảm khi thu hồi đất ở mà phải di chuyển chỗ ở thì phải bố trí chỗ ở cho người có đất thu hồi, vì người có đất thu hồi sẽ gặp rất nhiều khó khăn về cuộc sống, việc mưu sinh, thói quen, thậm chí còn những người liên quan. Chính vì vậy, kế thừa nội dung tại khoản 4 Điều 86 Luật Đất đai năm 2013, Luật Đất đai năm 2024 quy định: Trường hợp người có đất ở thu hồi mà phải di chuyển chỗ ở và được bồi thường bằng giao đất ở hoặc nhà ở tái dịnh cư nhưng tiền bồi thường về đất không đủ so với giá trị của một suất tái định cư tối thiểu thì được Nhà nước hỗ trợ tiền đủ để được giao một suất tái định cư tối thiểu (khoản 8 Điều 111), đồng thời có những quy định về bố trí tái định cư rõ ràng và cụ thể hơn.
Qua đó thấy rằng, vấn đề bù đắp những thiệt hại đối với người sử dụng đất sau khi bị thu hồi đất luôn được Nhà nước quan tâm, thực hiện ngày càng “tiệm cận” với thực tiễn đời sống xã hội, giảm thiểu những thiệt hại, tổn thất từ việc thu hồi đất. Tuy nhiên, Luật Đất đất đai năm 2013 và Luật Đất đai năm 2024 đều quy định trường hợp bị mất việc làm từ việc thu hồi đất gây ra vẫn không được coi là một thiệt hại nên Nhà nước không bồi thường mà chỉ có trách nhiệm hỗ trợ cho người có đất thu hồi, chủ sở hữu tài sản để tạo điều kiện cho người có đất thu hồi, chủ sở hữu tài sản có việc làm, có thu nhập, ổn định đời sống, sản xuất[15]. Việc thực hiện các khoản hỗ trợ, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm cho hộ gia đình, cá nhân khi Nhà nước thu hồi đất được quy định cụ thể tại Điều 83, Điều 84 Luật Đất đai năm 2013 và Điều 108, Điều 109 Luật Đất đai năm 2024. Do vậy, để thực hiện tốt hơn trong việc bù đắp, đền bù những thiệt hại khi thu hồi đất, bảo đảm hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, người sử dụng đất và xã hội, lĩnh vực bồi thường về đất cần có quy định bồi thường tương xứng hơn về diện tích đất bị thu hồi, có quan tâm cuộc sống người có đất thu hồi bảo đảm giá trị của thửa đất bị thu hồi, cũng như liên quan người có đất thu hồi sát với giá trị thực tế tại mỗi địa phương, đồng thời cần thừa nhận các thiệt hại liên quan việc thu hồi đất gây ra để xem xét bồi thường, bảo đảm hơn về quyền lợi của hộ gia đình, cá nhân khi “bị” thu hồi đất.
3. Kết luận
Pháp luật bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất và hoạt động thu hồi đất của Nhà nước luôn được xã hội đặc biệt quan tâm, được đánh giá là một trong những vấn đề hết sức nhạy cảm. Chính vì vậy, việc xác định rõ bản chất của bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất của hộ gia đình, cá nhân có ảnh hưởng rất lớn đến sự ổn định về chính trị, trật tự an toàn xã hội giúp Nhà nước thuận lợi hơn trong việc thực hiện các chính sách lớn về kinh tế - xã hội, thông qua việc thu hồi đất, như: Tạo lập quỹ đất để xây dựng các dự án, cơ sở kinh tế; bảo đảm hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, người có đất thu hồi và xã hội, góp phần xây dựng và tăng cường niềm tin của công dân đối với chủ trương, chính sách, pháp luật đất đai của Đảng và Nhà nước./.
ThS. Nguyễn Duy Quốc
Phó Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Luật miền Nam
Ngô Hải Sơn
Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cần Thơ
[1]. Xem: Khắc Phục (2022), Giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo - không để kỳ sau “chồng” lên kỳ trước, https://quochoi.vn/tintuc/Pages/tin-hoat-dong-cua-quoc-hoi.aspx?ItemID=66240, truy cập ngày 27/02/2024.
[2]. Phan Trung Hiền (2016), Xác định thiệt hại và bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất, http://lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=208589, truy cập ngày 27/02/2024.
[3]. Xem: Điều 91 Luật Đất đai năm 2024 quy định nguyên tắc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
[4]. Hoàng Thị Bích Loan (2018), Quan điểm đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý - Nhận thức và thực tiễn, Tạp chí Lý luận chính trị, http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/nguyen-cuu-ly-luan/item/2713-quan-diem-dat-dai-thuoc-so-huu-toan-dan-do-nha-nuoc-dai-dien-chu-so-huu-va-thong-nhat-quan-ly-nhan-thuc-va-thuc-tien.html, truy cập ngày 03/3/2024.
[5]. Xem Bruno Moser, Nicolaus Tideman (2011), Tax reform in Vietnam: Toward a more efficient and equitable system, World Bank (66317), tr. 243 - 245.
[6]. Theo Điều 14 Hiến pháp năm 2013.
[7]. Phan Trung Hiền (2021), Những điều cần biết về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 175.
[8]. Xem: Nguyễn Quang Tuyến (2013), Kinh nghiệm của một số nước về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất, Cổng Thông tin Quốc hội, https://quochoi.vn/thongtinchuyende/Pages/cacduanluatphaplenh.aspx?ItemID=27119, truy cập ngày 06/11/2023.
[9]. Khoản 12 Ðiều 3 Luật Ðất đai năm 2013, khoản 5 Điều 3 Luật Đất đai năm 2024.
[10]. Khoản 1 Điều 585 Bộ luật Dân sự năm 2015.
[11]. Xem: Khoản 3 Điều 3 Nghị quyết số 02/2022/NQ-HĐTP.
[12]. Phan Trung Hiền (2016), Xác định thiệt hại và bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, http://lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=208589, truy cập ngày 27/02/2024.
13. Châu Hoàng Thân (2020), Hoàn thiện quy định của pháp luật về quy trình xác định giá đất cụ thể, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Số 12, tr. 28 - 35.
[14]. Xem: Điều 3 Nghị định số 12/2024/NĐ-CP.
[15]. Xem: khoản 4 Điều 91 Luật Đất đai năm 2024.
(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 2 (Số 407), tháng 6/2024)