Chủ nhật 14/12/2025 04:46
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Bàn về kê khai và công khai tài sản trong Luật Phòng, chống tham nhũng

Tóm tắt: Bài viết này bình luận về việc kê khai và công khai tài sản trong Dự thảo Luật Phòng, chống tham nhũng (sửa đổi) với mong muốn đây sẽ là biện pháp hữu hiệu để công khai tài sản của cán bộ, công chức, viên chức nhằm phòng, chống vấn nạn tham nhũng

Abstract: This article comments on the enumeration and disclosure of assets in the Draft Law on Anti-corruption (amended) with the hope that this will be an effective measure to disclose assets of cadres, public servants and officers for preventing and opposing corruption.

Đời sống pháp luật trong những năm qua giành sự quan tâm đặc biệt đến tham nhũng, vấn đề đang được xem là quốc nạn với hàng loạt các đại án tham nhũng lên tới hàng ngàn tỷ đồng lần lượt được phanh phui và đưa ra ánh sáng. Trước tình hình đó, Thanh tra Chính phủ đã trình Chính phủ Dự thảo Luật Phòng, chống tham nhũng (sửa đổi) - sau đây gọi tắt là Dự thảo - với tham vọng xây dựng một đạo luật hoàn thiện và là công cụ hữu hiệu nhằm đẩy lùi vấn nạn trên. Đến nay, Dự thảo đang được hoàn thiện và lấy ý kiến đóng góp rộng rãi trong nhân dân, trong đó có vấn đề then chốt quan trọng vẫn chưa được thống nhất và còn nhiều ý kiến khác nhau, đó là vấn đề kê khai tài sản, thu nhập. Ý kiến thứ nhất cho rằng, việc kê khai tài sản, thu nhập nên được tiến hành hàng năm đối với tất cả các đối tượng có nghĩa vụ kê khai theo quy định hiện hành, đồng thời bổ sung thêm những cán bộ, công chức, viên chức là đảng viên. Cùng với đó, bản kê khai tài sản phải được công khai tại nơi mà người có nghĩa vụ kê khai thường xuyên làm việc, công tác và cư trú. Ý kiến thứ hai cho rằng, việc kê khai nên được thực hiện lần đầu với tất cả người mới được bổ nhiệm vào ngạch công chức. Sau khi kê khai lần đầu, cán bộ, công chức chỉ kê khai bổ sung mỗi khi được đề bạt chức vụ mới hoặc khi có biến động về tài sản, thu nhập tăng thêm với giá trị từ 200 triệu đồng trở lên. Việc kê khai cần được công khai tại nơi người có nghĩa vụ kê khai thường xuyên làm việc, công tác.

1. Về đối tượng có nghĩa vụ kê khai tài sản

Điều 43 Dự thảo đưa ra 07 nhóm đối tượng có nghĩa vụ phải công khai thu nhập, tài sản bao gồm: (a) Đại biểu Quốc hội chuyên trách, đại biểu Hội đồng nhân dân chuyên trách, người ứng cử đại biểu Quốc hội, người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân, người được dự kiến bầu, phê chuẩn tại Quốc hội, Hội đồng nhân dân; (b) Cán bộ, công chức từ Phó Trưởng phòng của Ủy ban nhân dân cấp huyện trở lên và người được hưởng phụ cấp chức vụ tương đương (có hệ số phụ cấp chức vụ từ 0,2 trở lên), những người được bổ nhiệm vào ngạch công chức trong cơ quan, đơn vị của Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp và các tổ chức khác được giao biên chế và có sử dụng kinh phí từ ngân sách nhà nước; (c) Sĩ quan chỉ huy từ cấp Phó Tiểu đoàn trưởng, người hưởng phụ cấp chức vụ tương đương Phó Tiểu đoàn trưởng trở lên trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan chỉ huy từ cấp Phó Tiểu đoàn trưởng, Phó Trưởng công an phường, thị trấn, Phó Đội trưởng trở lên trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân; (d) Người giữ chức vụ tương đương Phó Trưởng phòng trở lên tại các đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước, người được cử làm đại diện phần vốn nhà nước, phần vốn của doanh nghiệp nhà nước và người đó giữ chức danh quản lý từ Phó Trưởng phòng trở lên trong doanh nghiệp có vốn đầu tư của Nhà nước, của doanh nghiệp nhà nước; (đ) Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch, Phó Chủ tịch, ủy viên Ủy ban nhân dân và công chức xã, phường, thị trấn; (e) Người giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý trong các tổ chức do Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập hoặc phê duyệt điều lệ có huy động các khoản đóng góp của nhân dân; (g) Người làm việc trong các công ty đại chúng, tổ chức tín dụng và đơn vị sự nghiệp ngoài công lập theo quy định tại Chương VIII Luật này.

Quy định này được xem là tích cực khi pháp luật đã đưa ra 07 nhóm đối tượng có nghĩa vụ phải kê khai tài sản, đây là nhóm các đối tượng cần được kiểm soát mạnh mẽ. Tuy nhiên, thực tế trong những năm gần đây cho thấy, quy định này vẫn chưa đủ để xác định được đối tượng trung tâm của tham nhũng. Bởi lẽ: Một là, nhóm đối tượng này rất rộng và chưa có cơ chế để xác định hành vi tham nhũng nếu việc tham nhũng diễn ra thường xuyên nhưng không lớn, không gây ra biến động đột xuất về tài sản thì rất khó để xác định; hai là, đối với nhóm đối tượng là những cán bộ giữ các chức vụ chủ chốt trong các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp thì vấn đề này lại càng vướng mắc hơn khi tài sản kê khai hàng năm của họ có thể kiểm soát được nhưng nếu họ có hành vi tham nhũng và đưa tài sản tham nhũng cho người thân đứng tên thì sẽ rất khó kiểm soát; ba là, tham nhũng là vấn đề đa dạng, có rất nhiều cách thức để tham nhũng, nạn tham nhũng vặt rất phổ biến, đó là những khoản bôi trơn trong các giao dịch với cán bộ nhà nước trong các lĩnh vực dịch vụ công như y tế, giáo dục, đất đai, giao thông, thuế, hải quan, xây dựng… Trong khi đó ở một số nước, vấn đề tham nhũng nổi cộm lại có thể là tham nhũng trong lĩnh vực bầu cử (tình trạng mua phiếu bầu hoặc bí mật các khoản tài trợ lớn từ các tập đoàn để vận động tranh cử…)[1]. Vì thế, không thể quy định đối tượng có nghĩa vụ kê khai tài sản là các đối tượng giữ chức vụ từ trưởng, phó phòng trong các cơ quan nhà nước, các đơn vị sự nghiệp công bởi vì như thế sẽ là kẽ hở và tạo cơ hội cho các nhóm đối tượng là những người không có chức vụ nhưng lại đảm nhận công tác quản lý nhà nước thực hiện hành vi tham nhũng. Do vậy, cần mở rộng các đối tượng có nghĩa vụ kê khai tài sản là cán bộ, công chức, viên chức là đảng viên, đồng thời, cần xây dựng cơ chế giám sát tài sản đối với những đối tượng là người thân của những người giữ các chức vụ trong các cơ quan nhà nước, các lĩnh vực có khả năng tham nhũng cao.

2. Về công khai tài sản

Điều 46 Dự thảo quy định: “Người có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập có trách nhiệm gửi 01 bản kê khai cho bộ phận tổ chức - cán bộ và 01 bản kê khai cho cơ quan, đơn vị kiểm soát tài sản, thu nhập có thẩm quyền quản lý tập trung bản kê khai, thu nhập theo quy định”. Quy định này truyền tải đến một nội dung rằng, tất cả các đối tượng có nghĩa vụ kê khai tài sản theo quy định tại Điều 46 đều phải thực hiện kê khai tài sản của cá nhân mình. Việc kê khai được đơn vị nơi người đó công tác công khai bằng bản kê khai và lưu trữ tại cơ quan đó. Đây là một trong những phương thức quản lý tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức hữu hiệu, phổ biến nhất hiện nay trên thế giới. Dự thảo đưa ra nhiều phương thức loại bỏ tham nhũng như bỏ quy định về kê khai tài sản hàng năm thay vào đó là tổ chức kê khai tài sản lần đầu. Tuy nhiên, để xây dựng một văn bản luật với mục tiêu vừa phòng, vừa chống tham nhũng, thiết nghĩ cần có một cơ chế giám sát hiệu quả và vĩ mô hơn nữa. Việc công khai tài sản tại nơi làm việc của đối tượng có nghĩa vụ kê khai là một phương pháp, nhưng đó không phải là phương pháp duy nhất và phát huy hiệu quả tốt nhất, mà cần có sự tham gia của một chủ thể đặc biệt đó là nhân dân. Xét dưới góc độ quản lý, người dân nơi người có nghĩa vụ kê khai tài sản là chủ thể có khả năng giám sát gần nhất và sát sao nhất, đồng thời, nếu đấu tranh chống tham nhũng trước hết là trách nhiệm của các cơ quan nhà nước thì việc tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh đó vừa là quyền, vừa là trách nhiệm của các tổ chức và từng thành viên trong xã hội. Vì thế, việc công khai tài sản tham nhũng tại nơi người có nghĩa vụ kê khai cư trú là điều quan trọng và rất cần thiết.

3. Đôi điều bình luận từ góc nhìn thực tiễn

Dưới khía cạnh thực tiễn, cần nhìn nhận rằng, Việt Nam là một quốc gia nặng về nền công vụ, chế độ lương bổng và đãi ngộ đối với cán bộ, công chức, viên chức khá thấp so với chi tiêu cuộc sống mà họ cần trang trải. Thế nên không có gì là khó hiểu khi tình trạng tham nhũng không những xảy ra ở bộ phận những cá nhân có chức vụ từ trưởng, phó phòng mà cả cán bộ, công chức, viên chức có chức vụ thấp hoặc không có chức vụ lãnh đạo, quản lý, như nhân viên cảnh sát, thuế vụ, bác sỹ, y tá[2] chiếm tỷ lệ khá cao, trong đó, nguyên nhân chủ yếu là do cơ chế quản lý, kê khai tài sản không phát huy hiệu quả, chỉ mang tính hình thức.

Theo Tổ chức Minh bạch Quốc tế (TI) công bố Chỉ số cảm nhận tham nhũng (CPI) năm 2015, xếp hạng 168 quốc gia và vùng lãnh thổ dựa trên cảm nhận của các doanh nhân và chuyên gia trong nước về tham nhũng trong khu vực công, điểm số của Việt Nam là 31/100 điểm, đứng thứ 112/168 trên bảng xếp hạng toàn cầu. Điều này có nghĩa rằng, Việt Nam là một trong những quốc gia có chỉ số tham nhũng cao nhất thế giới, mặc dù, đánh giá của Tổ chức Minh bạch Quốc tế về Chỉ số cảm nhận tham nhũng của Việt Nam “chỉ để tham khảo là chính” bởi kết quả đó không phản ánh một cách toàn diện được tình hình tham nhũng tại Việt Nam[3].

Báo cáo của Chính phủ về công tác phòng, chống tham nhũng cho thấy, cơ quan điều tra các cấp đã thụ lý 351 vụ án, 813 bị can phạm tội về tham nhũng, đã kết luận điều tra 198 vụ; hiện đang điều tra 140 vụ. Đối với 16 vụ án tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp thuộc diện Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng theo dõi, chỉ đạo, Tòa án đã đưa ra xét xử sơ thẩm và phúc thẩm 05 vụ gồm: Vũ Quốc Hảo và đồng phạm; Dương Chí Dũng và đồng phạm; Huyền Như và đồng phạm; Vũ Việt Hùng và đồng phạm; Nguyễn Đức Kiên và đồng phạm. Viện kiểm sát cũng đã có cáo trạng truy tố 06 vụ án; cơ quan điều tra đã kết luận, đề nghị truy tố 04 vụ án và đang điều tra 07 vụ. Các vụ án, vụ việc tham nhũng trong năm 2015 đã gây thiệt hại trên 950 tỷ đồng và 9.887m2 đất; trong đó, thu hồi được trên 505 tỷ đồng, đạt 55,8% (tỷ lệ này năm 2013 là 10%, năm 2014 là 22,3%) và thu hồi được 2.887m2 đất (đạt 29,2%)[4]. Như vậy, tình hình tham nhũng vẫn diễn biến phức tạp, công tác phát hiện và xử lý vụ án tham nhũng được phát hiện còn ít, tài sản thu hồi là không đáng kể. Nguyên nhân chủ yếu được nhận định xuất phát từ quy định về công khai, minh bạch tài sản còn thiếu bao quát, chưa giúp kiểm soát biến động về thu nhập; còn vướng mắc về trình tự, thủ tục công khai bản kê khai, giải trình, xác minh tài sản, thu nhập khi có yêu cầu; chưa quy định rõ việc sử dụng bản kê khai tài sản vào mục đích phòng ngừa, phát hiện, xử lý tham nhũng. Trong khi hầu hết các vụ án được phát hiện và đưa ra xét xử đều liên quan đến những đối tượng giữ các chức vụ lớn trong cơ quan nhà nước hay doanh nghiệp nhà nước thì các hành vi tham nhũng nhỏ lẻ như lót tay, nhũng nhiễu hoàn toàn vắng bóng và làm mai một lòng tin người dân vào chính quyền. Mặc dù, Chính phủ đã rất nỗ lực trong việc chống tham nhũng, nhưng thiết nghĩ, trước khi thực hiện chống tham nhũng, nên bàn đến vấn đề làm thế nào để phòng ngừa tham nhũng.

Không một quốc gia nào là không có tham nhũng, xã hội càng phát triển thì hành vi tham nhũng càng tinh vi. Vì thế, với quyết tâm và sự nỗ lực của Đảng và Nhà nước ta, hy vọng rằng, Luật Phòng, chống tham nhũng (sửa đổi) được ban hành sẽ mang đến những bước tiến mới nhằm thanh lọc bộ máy nhà nước, kiến tạo niềm tin trong nhân dân và xóa bỏ được quốc nạn này.

ThS. Đặng Thị Hà

Đại học Luật, Đại học Huế

Tài liệu tham khảo:

[1]. Theo bà Đào Nga, Giám đốc Tổ chức Hướng tới Minh bạch (TT) - Cơ quan đầu mối của Tổ chức Minh bạch Quốc tế tại Việt Nam, Báo Khoa học & Đời sống số ra ngày 05/8/2016.

[2].http://dantri.com.vn/xa-hoi/thanh-tra-chinh-phu-phan-hoi-ve-xep-hang-tham-nhung-cua-viet-nam-nam-2015-20160129143705005.htm.

[3].http://vnexpress.net/tin-tuc/phap-luat/tham-nhung-o-viet-nam-vua-tinh-vi-vua-trang-tron-2242604-p2.html.

[4].http://vnexpress.net/tin-tuc/phap-luat/tham-nhung-o-viet-nam-vua-tinh-vi-vua-trang-tron-2242604-p2.html.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Một số vướng mắc, bất cập và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về sở hữu trí tuệ để thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển

Một số vướng mắc, bất cập và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về sở hữu trí tuệ để thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển

Tóm tắt: Trong kinh tế tri thức, tài sản trí tuệ là yếu tố then chốt góp phần quan trọng nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển tư nhân. Bài viết nghiên cứu một số bất cập về pháp luật sở hữu trí tuệ, từ đó, đề xuất kiến nghị nhằm hoàn thiện khung pháp lý và cơ chế thực thi quyền sở hữu trí tuệ, đồng thời, đưa ra giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp trong việc khai thác hiệu quả giá trị kinh tế của tài sản trí tuệ, góp phần thúc đẩy đổi mới sáng tạo và nâng cao năng lực cạnh tranh.
Bảo hộ quyền tác giả trong kỷ nguyên số - thách thức và giải pháp

Bảo hộ quyền tác giả trong kỷ nguyên số - thách thức và giải pháp

Tóm tắt: Kỷ nguyên số đã và đang tạo nhiều cơ hội để tiếp cận các tác phẩm ngày càng dễ dàng hơn với nhiều phương thức khác nhau. Tuy nhiên, thời đại kỷ nguyên số cũng đặt ra không ít thách thức trong việc bảo hộ quyền tác giả như sự xuất hiện của những loại hình tác phẩm mới, sự ra đời của những tác phẩm do trí tuệ nhân tạo (AI) tạo ra, sự gia tăng nhanh chóng của các hành vi xâm phạm với sự trợ giúp đắc lực của mạng internet cùng các công nghệ mới… Bài viết phân tích những thách thức về bảo hộ quyền tác giả trong kỷ nguyên số, đồng thời đề xuất một số giải pháp cho Việt Nam về vấn đề này.
Pháp luật về phòng, chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc và một số kiến nghị hoàn thiện

Pháp luật về phòng, chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc và một số kiến nghị hoàn thiện

Tóm tắt: Quấy rối tình dục tại nơi làm việc ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe về thể chất, tinh thần và tâm lý của người lao động, khiến cho hiệu quả công việc của họ bị giảm sút và môi trường làm việc trở nên thiếu an toàn. Do vậy, pháp luật quốc tế và pháp luật nhiều quốc gia đều có quy định để bảo đảm môi trường làm việc lành mạnh cũng như bảo vệ quyền lợi cho người lao động. Pháp luật Việt Nam cũng đã đặt ra các quy định để ngăn ngừa, hạn chế quấy rối tình dục tại nơi làm việc. Bài viết tập trung làm rõ những vấn đề pháp lý về phòng, chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc trên phương diện pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam, qua đó đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về vấn đề này ở Việt Nam.
Hoàn thiện quy định pháp luật về thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp gắn với bảo vệ hoạt động kinh doanh

Hoàn thiện quy định pháp luật về thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp gắn với bảo vệ hoạt động kinh doanh

Tóm tắt: Thi hành án dân sự nhanh, hiệu quả góp phần bảo vệ quyền lợi chính đáng cho các bên có liên quan, xây dựng môi trường kinh doanh bình đẳng. Để bảo vệ quyền lợi cho doanh nghiệp, thúc đẩy hoạt động kinh doanh lành mạnh, bài viết nghiên cứu, phân tích, đánh giá các quy định pháp luật hiện hành về trình tự, thủ tục thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp, chỉ ra những hạn chế, bất cập có thể cản trở hoạt động kinh doanh. Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự theo hướng vừa bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thi hành án, vừa tạo điều kiện để doanh nghiệp phục hồi và phát triển sản xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững của khu vực kinh tế tư nhân trong bối cảnh hiện nay.
Định giá tài sản kê biên trong thi hành án dân sự - Bất cập và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Định giá tài sản kê biên trong thi hành án dân sự - Bất cập và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Tóm tắt: Định giá tài sản kê biên có vai trò quan trọng, ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả công tác thi hành án dân sự. Vì vậy, để góp phần nâng cao tính minh bạch, hiệu quả và công bằng trong hoạt động thi hành án dân sự, bài viết phân tích các quy định hiện hành của Luật Thi hành án dân sự về định giá tài sản kê biên, chỉ ra những hạn chế, bất cập còn tồn tại trong thực tiễn áp dụng, từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực này.
Tổ chức, hoạt động thi hành án dân sự tại Vương quốc Anh và kinh nghiệm cho Việt Nam

Tổ chức, hoạt động thi hành án dân sự tại Vương quốc Anh và kinh nghiệm cho Việt Nam

Tóm tắt: Vương quốc Anh là quốc gia theo hệ thống Common Law, có tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự khá khác biệt so với các nước theo truyền thống Civil Law, trong đó đề cao tính xã hội hóa trong hoạt động thi hành án dân sự. Trong quá trình phát triển, hoạt động thi hành án dân sự tại Vương quốc Anh có một số cải cách, giúp cho hoạt động này ngày càng hiệu quả, phù hợp với thể chế chính trị, điều kiện kinh tế - xã hội. Do đó, việc nghiên cứu làm rõ một số cải cách trong hoạt động thi hành án dân sự tại Vương quốc Anh, từ đó, đưa ra một số đề xuất, kiến nghị để nâng cao hiệu quả hoạt động thi hành án dân sự tại Việt Nam là cần thiết.
Hoàn thiện pháp luật về thông báo thi hành án từ góc độ quyền và nghĩa vụ của đương sự

Hoàn thiện pháp luật về thông báo thi hành án từ góc độ quyền và nghĩa vụ của đương sự

Tóm tắt: Thông báo thi hành án là thủ tục không thể thiếu trong từng giai đoạn của quá trình tổ chức thi hành án dân sự. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành về thông báo thi hành án còn tồn tại một số bất cập, hạn chế như chưa tương xứng giữa quyền với nghĩa vụ của đương sự, giữa trách nhiệm với quyền hạn của cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên và chủ yếu được thực hiện theo hình thức thông báo trực tiếp… Bài viết phân tích pháp luật thực định và thực tiễn thi hành, từ đó, đề xuất hoàn thiện quy định pháp luật liên quan đến thông báo thi hành án để phù hợp thực tiễn, đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Hoàn thiện pháp luật về nghĩa vụ và quyền giáo dục của cha mẹ đối với con

Hoàn thiện pháp luật về nghĩa vụ và quyền giáo dục của cha mẹ đối với con

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích những bất cập trong quy định của pháp luật về nghĩa vụ và quyền giáo dục của cha mẹ đối với con, từ đó, đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật để thúc đẩy quyền được giáo dục của con trong gia đình được thực hiện hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển của trẻ em và xã hội trong bối cảnh hiện nay.
Bàn về một số học thuyết pháp lý và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng ở Việt Nam

Bàn về một số học thuyết pháp lý và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng ở Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết tập trung nghiên cứu một số học thuyết và phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật, chỉ ra những bất cập tồn tại trong quy định pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng ở Việt Nam chưa phù hợp với các học thuyết này. Từ đó, nghiên cứu đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng trong thời gian tới.
Cải cách thủ tục hành chính thúc đẩy đổi mới sáng tạo

Cải cách thủ tục hành chính thúc đẩy đổi mới sáng tạo

Tóm tắt: Cải cách thủ tục hành chính là yếu tố quan trọng, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý hành chính, thúc đẩy cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, đặc biệt là tạo động lực cho đổi mới sáng tạo. Nghiên cứu này phân tích sự cần thiết của cải cách thủ tục hành chính và thực trạng cải cách thủ tục hành chính ở Việt Nam trong việc khơi thông động lực đổi mới sáng tạo, từ đó, đề xuất giải pháp cải cách.
Tiếp cận góc độ kinh tế học pháp luật trong hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam

Tiếp cận góc độ kinh tế học pháp luật trong hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích quá trình phát triển tư tưởng về mối quan hệ giữa luật pháp và kinh tế học, tập trung vào trường phái kinh tế học pháp luật với phương pháp phân tích chi phí - lợi ích làm nổi bật vai trò quan trọng của việc cân nhắc các tác động hành vi cùng hiệu quả phân bổ nguồn lực trong xây dựng, hoàn thiện pháp luật. Trên cơ sở đó, đề xuất áp dụng phương pháp kinh tế học pháp luật vào quy trình lập pháp tại Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả, tính minh bạch, sự công bằng xã hội và góp phần thúc đẩy cải cách pháp luật bền vững trong bối cảnh hội nhập quốc tế, chuyển đổi số.
Hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của trọng tài lao động đối với tranh chấp lao động cá nhân ở Việt Nam hiện nay

Hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của trọng tài lao động đối với tranh chấp lao động cá nhân ở Việt Nam hiện nay

Tóm tắt: Tranh chấp lao động cá nhân là tranh chấp phổ biến nhất trong quan hệ lao động và ngày càng diễn biến phức tạp, cùng với đó, nhu cầu về cơ chế giải quyết tranh chấp hiệu quả, linh hoạt và bảo đảm quyền lợi cho các bên cũng ngày càng tăng trong lĩnh vực lao động. Trọng tài lao động với tính chất độc lập và được thiết kế theo cơ chế ba bên, có tiềm năng trở thành phương thức giải quyết tranh chấp lao động cá nhân hiệu quả. Bài viết phân tích thực trạng pháp luật hiện hành về thẩm quyền của trọng tài lao động đối với tranh chấp lao động cá nhân, từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
Hoàn thiện khung pháp lý về tài sản số và quyền sở hữu tài sản số tại Việt Nam

Hoàn thiện khung pháp lý về tài sản số và quyền sở hữu tài sản số tại Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích các dấu hiệu nhận diện đặc trưng của tài sản số, những khó khăn, bất cập khi thiếu khung pháp lý về tài sản số và quyền sở hữu tài sản số, kinh nghiệm của Hoa Kỳ và giá trị tham khảo cho Việt Nam. Từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm xây dựng khung pháp lý vững chắc giúp Việt Nam có cơ hội phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực công nghệ, bảo vệ quyền lợi của người sở hữu tài sản số, tận dụng tối đa tiềm năng từ tài sản số và tiếp tục vững bước trên con đường phát triển kinh tế số.
Trách nhiệm pháp lý của người có ảnh hưởng trong hoạt động quảng cáo nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Trách nhiệm pháp lý của người có ảnh hưởng trong hoạt động quảng cáo nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Tóm tắt: Bài viết phân tích, làm rõ khái niệm người có ảnh hưởng, tình hình thực tiễn về mô hình quảng cáo thông qua người có ảnh hưởng và các hành vi quảng cáo gây ảnh hưởng đến quyền lợi của người tiêu dùng. Trên cơ sở đó, nghiên cứu phân tích một số hạn chế, bất cập trong quy định pháp luật và đề xuất, kiến nghị hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của người có ảnh hưởng trong hoạt động quảng cáo nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Phát huy vai trò và trách nhiệm của thanh niên trong việc hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự trong kỷ nguyên mới

Phát huy vai trò và trách nhiệm của thanh niên trong việc hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự trong kỷ nguyên mới

Tóm tắt: Trong bối cảnh đất nước bước vào kỷ nguyên mới với những yêu cầu đặt ra về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng như yêu cầu tháo gỡ những “điểm nghẽn”, “nút thắt” có nguyên nhân từ quy định của pháp luật hiện nay, việc hoàn thiện pháp luật nói chung và pháp luật về thi hành án dân sự nói riêng là cấp thiết, đặc biệt, dự án Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi) dự kiến được Quốc hội khóa XV thông qua tại kỳ họp thứ 10 vào tháng 10/2025. Trước bối cảnh đó, với vai trò là trụ cột, là nguồn lực chủ yếu để xây dựng và phát triển lực lượng sản xuất mới, đồng thời là đội ngũ tiên phong tham gia các lĩnh vực mới, thanh niên ngành thi hành án dân sự cần tiếp tục phát huy vai trò và trách nhiệm trong việc tham gia vào công tác hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự.

Theo dõi chúng tôi trên: