Thứ tư 19/11/2025 07:49
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Bàn về thẩm quyền đề nghị miễn thi hành án khoản tiền phạt theo Bộ luật Hình sự

Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, miễn, giảm mức hình phạt đã tuyên là sự thể hiện chính sách khoan hồng của Nhà nước đối với người phạm tội khi đáp ứng đầy đủ một số điều kiện nhất định.

Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, miễn, giảm mức hình phạt đã tuyên là sự thể hiện chính sách khoan hồng của Nhà nước đối với người phạm tội khi đáp ứng đầy đủ một số điều kiện nhất định.

Chính sách này của Nhà nước nhằm khuyến khích người bị kết án cải tạo tốt, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của mình gây ra. Việc miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án dân sự cũng không nằm ngoài ý nghĩa và mục đích nói trên. Tuy nhiên, đứng trên góc độ các quy định của pháp luật hiện nay liên quan đến việc xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án dân sự, còn nhiều vấn đề chưa rõ ràng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục. Xin nêu ra một số bất cập và phân tích để các đồng nghiệp cùng trao đổi.

Về thẩm quyền xem xét, quyết định miễn giảm nghĩa vụ thi hành án dân sự đã được quy định rõ tại Điều 63 Luật Thi hành án dân sự năm 2008: “Việc xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, Toà án quân sự khu vực (sau đây gọi chung là Toà án cấp huyện) nơi cơ quan thi hành án dân sự đang tổ chức việc thi hành án có trụ sở”.

Thẩm quyền xét miễn, giảm hình phạt tiền được quy định tại đoạn 3 khoản 1 Điều 269 Bộ luật Tố tụng hình sự: “... Việc giảm thời hạn hoặc miễn chấp hành các hình phạt khác hoặc giảm thời gian thử thách thuộc thẩm quyền quyết định của Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án quân sự khu vực nơi người bị kết án chấp hành hình phạt hoặc chịu thử thách”.

Về trình tự, thủ tục lập hồ sơ, đề nghị miễn giảm cũng đã được quy định tương đối rõ ràng từ Điều 61 đến Điều 64 Luật Thi hành án dân sự; Điều 26 Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự về trình tự, thủ tục thi hành án dân sự. Cụ thể hơn nữa là Thông tư số 10/2010/TTLT-BTP-BTC-BCA-VKSNDTC-TANDTC ngày 25/5/2010 của liên Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính, Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn việc miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với các khoản thu nộp ngân sách nhà nước.

Theo quy định tại Điều 2 của Thông tư số 10 thì các khoản thuộc diện được xét miễn, giảm thi hành án bao gồm:

“1. Phần tiền phạt còn lại quy định tại khoản 2 Điều 58 Bộ luật Hình sự.

2. Phần tiền phạt còn lại quy định tại khoản 3 Điều 76 Bộ luật Hình sự.

3. Các khoản truy thu tiền, tài sản thu lời bất chính, án phí, tịch thu sung quỹ nhà nước và các khoản tiền phạt khác được xác định trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án”.

Trong quy định trên, chúng ta thấy có sự phân biệt giữa khoản tiền phạt được xác định trong bản án và khoản tiền phạt còn lại theo quy định của Bộ luật Hình sự. Điều này có ý nghĩa và mục đích như thế nào, xin phân tích thêm như sau: Theo quy định tại Điều 28 Bộ luật Hình sự, hình phạt bao gồm hình phạt chính và hình phạt bổ sung: “1. Hình phạt chính bao gồm: a) Cảnh cáo; b) Phạt tiền... 2. Hình phạt bổ sung bao gồm: ... đ) Tịch thu tài sản; e) Phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính...”. Như vậy, có thể thấy rằng, phạt tiền trong bản án, quyết định về hình sự có thể được áp dụng với vai trò là hình phạt chính và cũng có thể được áp dụng là hình phạt bổ sung. Xuất phát từ việc hình phạt tiền được áp dụng với vai trò nào sẽ dẫn đến sự khác nhau về thẩm quyền đề nghị xét miễn, giảm. Xung quanh vấn đề này, theo chúng tôi, cần làm rõ quy định của một số điều luật có liên quan để thực hiện việc xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án một cách chính xác, tránh tình trạng các cơ quan có liên quan né tránh, đùn đẩy trách nhiệm, dẫn đến việc người bị kết án có thể không được hưởng chính sách khoan hồng của Nhà nước chính từ việc làm của các cơ quan công quyền.

Tại Điều 4 Thông tư số 10 quy định về thẩm quyền đề nghị xét miễn, giảm thi hành án như sau:

“1. Trong quá trình tổ chức thi hành án, nếu xét thấy người phải thi hành án có các điều kiện quy định tại Điều 61 Luật Thi hành án dân sự; khoản 2 Điều 58, khoản 3 Điều 76 của Bộ luật Hình sự thì chấp hành viên được giao thi hành vụ việc tiến hành xác minh, lập hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm thi hành án và báo cáo thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự có văn bản đề nghị Toà án có thẩm quyền xét miễn, giảm thi hành án.

Trường hợp, người phải thi hành án có đơn đề nghị xét miễn, giảm thi hành án, thì trong thời hạn mười ngày kể từ ngày nhận được đơn, chấp hành viên được giao thi hành vụ việc phải xác minh, nếu đủ điều kiện để xét miễn, giảm thì lập hồ sơ xét miễn, giảm thi hành án theo quy định. Trường hợp chưa đủ điều kiện xét miễn, giảm thi hành án thì trong thời hạn năm ngày làm việc kể từ ngày nhận được đơn phải thông báo bằng văn bản cho người có đơn đề nghị xét miễn, giảm thi hành án biết.

2. Đối với phần tiền phạt còn lại quy định tại khoản 2 Điều 58 Bộ luật Hình sự; khoản tiền phạt quy định tại khoản 3 Điều 76 Bộ luật Hình sự, căn cứ hồ sơ thi hành án do cơ quan thi hành án dân sự cung cấp, Viện trưởng Viện kiểm sát cấp huyện nơi người phải thi hành án cư trú, làm việc đề nghị Toà án cùng cấp xét miễn, giảm thi hành án...”.

Khoản 2 Điều 58 Bộ luật Hình sự quy định: “...2. Người bị kết án phạt tiền đã tích cực chấp hành được một phần hình phạt nhưng bị lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn kéo dài do thiên tai, hoả hoạn, tai nạn hoặc ốm đau gây ra mà không thể tiếp tục chấp hành được phần hình phạt còn lại hoặc lập công lớn, thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát, Toà án có thể quyết định miễn việc chấp hành phần tiền phạt còn lại...”.

Khoản 3 Điều 76 Bộ luật Hình sự quy định: “...3. Người chưa thành niên bị phạt tiền nhưng bị lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn kéo dài do thiên tai, hoả hoạn, tai nạn hoặc ốm đau gây ra hoặc lập công lớn, thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát, Toà án có thể quyết định giảm hoặc miễn việc chấp hành phần tiền phạt còn lại...”.

Hai quy định nêu trên của Bộ luật Hình sự bản chất cùng quy định về điều kiện để được xét miễn chấp hành hình phạt tiền còn lại, chỉ khác nhau ở đối tượng áp dụng. Nội dung bài viết không đi vào phân tích đối tượng được xét miễn, giảm là người đã thành niên hay chưa thành niên, mà chỉ tập trung làm rõ về thẩm quyền đề nghị miễn, giảm đối với người phải thi hành án khi có đủ các điều kiện đã nêu trong nội dung khoản 2 Điều 58 Bộ luật Hình sự.

Trên thực tế, có các quan điểm liên quan đến thẩm quyền đề nghị xét miễn, giảm thi hành khoản tiền phạt khác nhau như sau:

Quan điểm thứ nhất, Viện kiểm sát nhân dân chỉ có văn bản đề nghị Toà án nhân dân nơi người bị kết án đang chấp hành hình phạt (tiền) vụ việc xét miễn thi hành đối với khoản tiền phạt còn lại khi hình phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính trong bản án, quyết định. Nếu trường hợp hình phạt tiền là hình phạt bổ sung, thì cơ quan thi hành án căn cứ tại đoạn 1 khoản 1 Điều 4 Thông tư liên tịch số 10 để làm văn bản trực tiếp đề nghị Toà án nhân dân nơi cơ quan thi hành án dân sự đang tổ chức thi hành vụ việc có trụ sở xét miễn.

Quan điểm thứ hai, việc đề nghị miễn thi hành khoản tiền phạt còn lại khi có đủ điều kiện quy định tại khoản 2 Điều 58 và khoản 3 Điều 76 Bộ luật Hình sự là thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân không phụ thuộc vào việc hình phạt tiền đó là hình phạt chính hay hình phạt bổ sung. Và đối với khoản tiền phạt, cơ quan thi hành án dân sự chỉ có thẩm quyền đề nghị Toà án nhân dân xét miễn, giảm theo quy định của Luật Thi hành án dân sự (khi có các căn cứ tại Điều 61) chứ không được đề nghị xét miễn, giảm theo các điều kiện quy định tại khoản 2 Điều 58, khoản 3 Điều 76 Bộ luật Hình sự.

Chúng tôi đồng tình với quan điểm thứ nhất, bởi những lý do như sau:

Một là, theo khoản 1 Điều 4 Thông tư liên tịch số 10, thì ngoài các điều kiện quy định tại Điều 61 Luật Thi hành án dân sự thì khi có căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 58, khoản 3 Điều 76 Bộ luật Hình sự, thì thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền đề nghị Toà án nhân dân xét miễn, giảm phần còn lại theo báo cáo đề xuất của chấp hành viên được phân công tổ chức thi hành vụ việc.

Hai là, mặc dù tại khoản 2 Điều 58 và khoản 3 Điều 76 Bộ luật Hình sự chỉ sử dụng cụm từ “người bị kết án phạt tiền” mà không phân biệt hoặc có hướng dẫn thực hiện rằng khoản tiền phạt đó phải là hình phạt chính, nhưng phân tích một cách có logic nội dung các điều luật nói trên có thể thấy rằng, việc quy định cứng thẩm quyền đề nghị xét miễn, giảm trong trường hợp này thuộc về Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân là hoàn toàn có cơ sở để xác định đó phải là hình phạt chính. Vì trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ về kiểm sát việc thi hành án hình sự, hàng năm, Viện kiểm sát phải tiến hành phối hợp với các cơ quan chức năng tiến hành rà soát, đề nghị xem xét miễn, giảm chấp hành hình phạt đối với những đối tượng có đủ điều kiện. Và chỉ khi hình phạt tiền là hình phạt chính thì Viện kiểm sát mới có thể đề nghị Toà án xem xét miễn, giảm cũng giống như đề nghị miễn, giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù, giảm thời gian thử thách theo thủ tục tố tụng hình sự. Đây chính là tinh thần quy định tại khoản 2 Điều 58 và khoản 3 Điều 76 Bộ luật Hình sự. Trong trường hợp hình phạt tiền là hình phạt bổ sung, thì Viện kiểm sát nhân dân có thể yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự đang tổ chức thi hành vụ việc phải lập hồ sơ và trực tiếp đề nghị Toà án nhân dân xét miễn, giảm theo quy định của Luật Thi hành án dân sự và Thông tư liên tịch số 10.

Trong thực tế, việc miễn, giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù hoặc giảm thời gian thử thách được thực hiện thường xuyên, một năm ít nhất là 3 lần vào các dịp lễ, tết. Thủ tục và trình tự được hướng dẫn kỹ, nên khi thực hiện không có gì vướng mắc. Đối với các hình phạt bổ sung mà cụ thể là hình phạt tiền (khi không áp dụng là hình phạt chính) thì lại không có hướng dẫn cụ thể. Bằng phép suy diễn mới có thể hiểu rằng, nếu khoản tiền phạt là hình phạt bổ sung và chưa đáp ứng đủ điều kiện để được xét miễn theo quy định tại Điều 61 Luật Thi hành án dân sự, thì phải áp dụng Luật Thi hành án dân sự và Thông tư liên tịch số 10 đồng thời kèm theo điều kiện “đã tích cực chấp hành được một phần hình phạt nhưng bị lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn kéo dài do thiên tai, hoả hoạn, tai nạn hoặc ốm đau gây ra mà không thể tiếp tục chấp hành được phần hình phạt còn lại hoặc lập công lớn”, thì mới có thể được xét miễn toàn bộ nghĩa vụ còn lại. Còn nếu phạt tiền là hình phạt chính trong bản án, quyết định thì chỉ cần có đủ điều kiện quy định duy nhất tại nội dung khoản 2 Điều 58 và khoản 3 Điều 76 Bộ luật Hình sự là người phải thi hành án đã có thể được xét miễn toàn bộ nghĩa vụ còn lại theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân.

Trước đây, tại Thông tư liên ngành số 05/TT-LN ngày 26/12/1986 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp và Bộ Nội vụ hướng dẫn về giảm thời hạn hoặc miễn chấp hành hình phạt và chấm dứt thời hạn chấp hành biện pháp tư pháp có hướng dẫn về miễn hoặc giảm thời hạn chấp hành hình phạt bổ sung theo Bộ luật Hình sự năm 1985 như sau:

- Giảm thời hạn chấp hành hình phạt bổ sung (Điều 50): Người đang chấp hành hình phạt cư trú hoặc quản chế nếu có đủ 2 điều kiện sau đây thì được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại:

+ Đã chấp hành được 1/2 thời hạn hình phạt. Thời hạn chấp hành hình phạt quản chế tính từ ngày người bị kết án trình diện với chính quyền cơ sở là đã chấp hành xong hình phạt tù. Thời hạn chấp hành hình phạt cấm cư trú tính từ ngày người bị kết án đã chấp hành xong hình phạt tù.

+ Đã có nhiều tiến bộ thể hiện ở việc tích cực lao động, học tập và nghiêm chỉnh chấp hành các chính sách và pháp luật các quy định về cấm cư trú hoặc quản chế.

- Giảm hoặc miễn chấp hành hình phạt trong trường hợp đặc biệt (Điều 51): Theo khoản 1 Điều 51, đối với người bị kết án có lý do đáng được khoan hồng thêm thì có thể được xét giảm sớm hơn hoặc mức cao hơn so với thời gian và mức quy định ở Điều 49 và Điều 50, lý do đáng được khoan hồng thêm là:

+ Người bị kết án đã lập công như tố cáo giúp trại cải tạo hoặc cơ quan điều tra phát hiện tội phạm; có sáng kiến hoặc cải tiến kỹ thuật có giá trị trong sản xuất; cứu được tính mạng của người khác trong tình thế hiểm nghèo; cứu được tài sản của Nhà nước, của tập thể hoặc của công dân khi có bão lụt, hỏa hoạn v.v...

+ Người bị kết án đã quá già yếu hoặc đang mắc bệnh hiểm nghèo. Người quá già yếu là người đã 70 tuổi trở lên hoặc trên 60 tuổi mà thường xuyên ốm yếu. Mắc bệnh hiểm nghèo nghĩa là mắc một trong những bệnh nguy hiểm đến tính mạng như lao nặng, ung thư, bại liệt...

Bộ luật Hình sự quy định thời hạn sớm hơn và mức cao hơn không đáng kể so với thời hạn quy định ở Điều 49 và Điều 50. Tuy nhiên, ít nhất thì người bị kết án cũng phải đã chấp hành được 1/4 thời hạn của hình phạt; các hình phạt được miễn chấp hành bao gồm hình phạt chính và hình phạt bổ sung.

Đến nay, đối chiếu quy định tại các Điều 49, 50 và 51 Bộ luật Hình sự năm 1985 và các Điều 57, 58, 59 Bộ luật Hình sự năm 2000, sửa đổi năm 2009, về cơ bản không có gì thay đổi, bởi vì: Điều 49 chuyển thành Điều 58; Điều 50 được chuyển thành khoản 5 Điều 57; khoản 2 Điều 51 chuyển thành Điều 57, khoản 1 chuyển thành Điều 59, khoản 3 chuyển thành khoản 4 Điều 58.

Tuy nhiên, đến nay Thông tư liên ngành số 05/TT-LN ngày 26/12/1986 đã hết hiệu lực pháp luật. Do đó, không thể áp dụng tinh thần Thông tư này để cho rằng, khoản tiền phạt được xét miễn theo khoản 2 Điều 58 và khoản 3 Điều 76 Bộ luật Hình sự bao gồm cả tiền phạt là hình phạt chính và tiền phạt là hình phạt bổ sung.

Như vậy, có thể thấy rằng, hiện nay trong hệ thống các quy định của pháp luật còn nhiều quy định gây khó khăn về cách hiểu, cách thực hiện. Trong quy định về thẩm quyền đề nghị xét miễn, giảm ở trên gây ra tình trạng giữa cơ quan thi hành án dân sự và Viện kiểm sát nhân dân không thống nhất quan điểm trong việc cơ quan nào có thẩm quyền đề nghị Toà án nhân dân xét miễn đối với khoản tiền phạt còn lại khi có đủ điều kiện quy định tại khoản 2 Điều 58, khoản 3 Điều 76 Bộ luật Hình sự. Để hiểu một cách đúng đắn và áp dụng thống nhất đòi hỏi phải phân tích, đánh giá và đặt trong mối quan hệ với các quy định pháp luật khác. Tuy nhiên, để thực hiện không phải là điều dễ dàng. Qua bài viết này, chúng tôi mong muốn góp phần làm rõ quy định của pháp luật hiện hành về thẩm quyền đề nghị xét miễn thi hành đối với khoản tiền phạt còn lại để các cơ quan thi hành án dân sự và Viện kiểm sát nhân dân trong quá trình thực hiện tránh được những cách hiểu khác nhau, gây ảnh hưởng đến quyền của người bị kết án hoặc người phải thi hành án khi có đủ điều kiện để được hưởng sự khoan hồng của Nhà nước.

Lương Thanh Tùng

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: “Cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính dựa trên dữ liệu là giải pháp căn cơ, toàn diện”

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: “Cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính dựa trên dữ liệu là giải pháp căn cơ, toàn diện”

Trao đổi với báo chí, Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh nhấn mạnh: Việc cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính (TTHC) dựa trên dữ liệu không chỉ nhằm tinh gọn quy trình, giảm thiểu chi phí xã hội mà còn là giải pháp căn cơ để xây dựng nền hành chính phục vụ, hiện đại, minh bạch. Đây cũng là nhiệm vụ trọng tâm trong triển khai chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm, Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.
Công bố thủ tục hành chính được sửa đổi, bổ sung; thủ tục hành chính bị bãi bỏ trong lĩnh vực quản tài viên và hành nghề quản lý, thanh lý tài sản thuộc phạm vi chức năng quản lý của Bộ Tư pháp

Công bố thủ tục hành chính được sửa đổi, bổ sung; thủ tục hành chính bị bãi bỏ trong lĩnh vực quản tài viên và hành nghề quản lý, thanh lý tài sản thuộc phạm vi chức năng quản lý của Bộ Tư pháp

Ngày 23/6/2025, Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Quyết định số 1858/QĐ-BTP về việc công bố thủ tục hành chính được sửa đổi, bổ sung; thủ tục hành chính bị bãi bỏ trong lĩnh vực quản tài viên và hành nghề quản lý, thanh lý tài sản thuộc phạm vi chức năng quản lý của Bộ Tư pháp.
Công bố thủ tục hành chính được sửa đổi, bổ sung trong lĩnh vực thừa phát lại thuộc phạm vi chức năng quản lý của Bộ Tư pháp

Công bố thủ tục hành chính được sửa đổi, bổ sung trong lĩnh vực thừa phát lại thuộc phạm vi chức năng quản lý của Bộ Tư pháp

Ngày 23/6/2025, Bộ Tư pháp ban hành Quyết định số 1836/QĐ-BTP về việc công bố thủ tục hành chính được sửa đổi, bổ sung trong lĩnh vực thừa phát lại thuộc phạm vi chức năng quản lý của Bộ Tư pháp.
Công bố thủ tục hành chính mới ban hành, thủ tục hành chính bị bãi bỏ trong lĩnh vực công chứng thuộc phạm vi chức năng quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Công bố thủ tục hành chính mới ban hành, thủ tục hành chính bị bãi bỏ trong lĩnh vực công chứng thuộc phạm vi chức năng quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 23/6/2025, Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Quyết định số 1859/QĐ-BTP về việc công bố thủ tục hành chính mới ban hành, thủ tục hành chính bị bãi bỏ trong lĩnh vực công chứng thuộc phạm vi chức năng quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
Công bố thủ tục hành chính trong lĩnh vực chứng thực thuộc phạm vi chức năng quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Công bố thủ tục hành chính trong lĩnh vực chứng thực thuộc phạm vi chức năng quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 23/6/2025, Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Quyết định số 1857/QĐ-BTP về việc công bố thủ tục hành chính trong lĩnh vực chứng thực thuộc phạm vi chức năng quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.

Giải trừ trách nhiệm của công chức thuế, tạo thuận lợi giải quyết hoàn thuế cho doanh nghiệp

Luật số 56/2024/QH15 bổ sung quy định về trách nhiệm của công chức thuế theo hướng giải trừ trách nhiệm cho công chức thuế khi có gian lận trong kê khai, cung cấp thông tin tạo thuận lợi giải quyết hoàn thuế cho doanh nghiệp chân chính.

Cải cách thủ tục hành chính cấp Phiếu lý lịch tư pháp tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tại thành phố Hải Phòng

Hải Phòng là địa phương luôn nỗ lực, tích cực thực hiện cải cách thủ tục hành chính, với mục tiêu tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp, trong đó phải kể đến lĩnh vực cấp Phiếu lý lịch tư pháp. Điều này được thể hiện rõ nét qua sự quyết tâm, chủ động, sáng tạo trong triển khai, thực hiện các văn bản, quy định nhằm cải cách thủ tục hành chính cấp Phiếu lý lịch tư pháp.

Pháp luật quốc tế về bảo vệ quyền riêng tư của cá nhân trong bối cảnh chuyển đổi số và những khuyến nghị cho Việt Nam

Bài viết bàn về những vấn đề cơ bản của quyền riêng tư và sự cần thiết phải bảo vệ quyền riêng tư; phân tích các vấn đề pháp lý về bảo vệ quyền riêng tư của cá nhân theo pháp luật quốc tế, từ đó đúc kết và đưa ra những khuyến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực này tại Việt Nam trong bối cảnh chuyển đổi số.

Bảo đảm quyền văn hóa của người dân tộc thiểu số trong bối cảnh chuyển đổi số

Bài viết nghiên cứu về những vấn đề đặt ra đối với việc bảo đảm quyền văn hóa của người dân tộc thiếu số ở nước ta hiện nay trong bối cảnh chuyển đổi số.

Xây dựng, kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức Ngành Tư pháp đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới

Bài viết đề cập đến vấn đề xây dựng và kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức Ngành Tư pháp trong sạch, vững mạnh, liêm chính, chuyên nghiệp đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Nâng cao hiệu quả công tác xếp loại thi đua chấp hành án phạt tù đối với phạm nhân ở các cơ sở giam giữ

Nâng cao hiệu quả công tác xếp loại thi đua chấp hành án phạt tù đối với phạm nhân ở các cơ sở giam giữ

Thi đua chấp hành án phạt tù tại các cơ sở giam giữ là một trong những yêu cầu phạm nhân phải thực hiện theo quy định của pháp luật. Kết quả của việc thi đua chấp hành án phạt tù là cơ sở để thực hiện các chính sách của Nhà nước đối với phạm nhân theo quy định của Luật Thi hành án hình sự năm 2019. Công tác xếp loại thi đua chấp hành án phạt tù đối với phạm nhân thuộc về cơ sở giam giữ phạm nhân theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, qua thực tiễn thi hành cho thấy một số khó khăn, vướng mắc cần có giải pháp khắc phục, nâng cao hiệu quả công tác này trong thời gian tới.
Sở Tư pháp tỉnh Kon Tum đẩy mạnh hoạt động xây dựng Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp

Sở Tư pháp tỉnh Kon Tum đẩy mạnh hoạt động xây dựng Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp

Nhận thức rõ tầm quan trọng của dữ liệu lý lịch tư pháp trong tiến trình xây dựng, phát triển Chính phủ điện tử, Chính phủ số, công dân số, phục vụ tốt nhất cho người dân và doanh nghiệp thông qua việc cấp Phiếu lý lịch tư pháp qua môi trường điện tử theo tinh thần của Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030 (Đề án số 06/CP của Chính phủ), được sự quan tâm, chỉ đạo của lãnh đạo tỉnh, Sở Tư pháp tỉnh Kon Tum đã ban hành và tổ chức thực hiện Kế hoạch số 64/KH-STP ngày 18/7/2024 về cao điểm nhập dữ liệu thông tin lý lịch tư pháp vào Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp dùng chung của Sở Tư pháp tỉnh Kon Tum.

Công tác tư pháp 06 tháng cuối năm 2024: Tập trung hoàn thiện thể chế và đẩy mạnh chuyển đổi số trong ngành Tư pháp

Trong 06 tháng đầu năm 2024, Bộ, Ngành Tư pháp đã bám sát sự lãnh đạo của Đảng, Quốc hội, sự điều hành của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ, đoàn kết, trách nhiệm, tập trung triển khai toàn diện, kịp thời các nhiệm vụ được giao đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội của đất nước. Theo đó, để hoàn thành tốt kế hoạch công tác năm 2024, Bộ, Ngành Tư pháp đã đề ra những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu của 06 tháng cuối năm, trong đó xác định tiếp tục đổi mới, quyết liệt trong chỉ đạo, điều hành; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước; tiếp tục đầu tư nguồn lực, cơ sở hạ tầng để đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong Ngành Tư pháp... góp phần vào công cuộc phát triển đất nước trong tình hình mới.
Một số ý kiến góp ý đối với Đề cương chi tiết Luật Luật sư thay thế Luật Luật sư năm 2006

Một số ý kiến góp ý đối với Đề cương chi tiết Luật Luật sư thay thế Luật Luật sư năm 2006

Một trong các nhiệm vụ và giải pháp được xác định trong Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Hội nghị lần thứ 6, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới (Nghị quyết số 27-NQ/TW) đã xác định: “Hoàn thiện thể chế về luật sư và hành nghề luật sư, bảo đảm để luật sư thực hiện tốt quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm theo quy định của pháp luật...”.
Hoạt động đấu giá tài sản tiếp tục được chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa một cách mạnh mẽ

Hoạt động đấu giá tài sản tiếp tục được chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa một cách mạnh mẽ

Ngày 27/6/2024, tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đấu giá tài sản nhằm góp phần phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí; tiếp tục nâng cao tính chuyên nghiệp hóa, chuyên môn hóa của đội ngũ đấu giá viên, tổ chức đấu giá tài sản; khắc phục những hạn chế, bất cập, bảo đảm tính công khai, minh bạch, khách quan, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong hoạt động đấu giá tài sản; nâng cao hiệu quả, hiệu lực của công tác quản lý nhà nước về đấu giá tài sản. Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2025.

Theo dõi chúng tôi trên:

he-thong-benh-vien-quoc-te-vinmec
nha-hang-thai-village
delta-group
khach-san-ladalat
trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
truong-dai-hoc-y-duoc-dai-hoc-quoc-gia-ha-noi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm
cong-ty-co-phan-loc-hoa-dau-binh-son
sofitel-legend-metropole-ha-noi