Thứ ba 17/06/2025 10:36
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Bàn về ủy quyền ban hành quyết định hành chính

Quyết định hành chính (QĐHC) là văn bản áp dụng pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành nhân danh quyền lực công. QĐHC phải tuân thủ pháp luật, đường lối. chính sách chung của Đảng và Nhà nước, đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân, thực tiễn quản lý nhà nước trong từng giai đoạn cụ thể.

Hoạt động ủy quyền ban hành quyết định hành chính đóng vai trò hết sức quan trọng trong quản lý nhà nước. Tuy nhiên, cho đến nay, trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật ở nước ta vẫn chưa có một văn bản quy phạm pháp luật nào quy định một cách đầy đủ và thống nhất về vấn đề ủy quyền, dẫn đến việc ủy quyền diễn ra một cách tùy tiện, không rõ giới hạn, không rõ trách nhiệm của từng cấp, cơ quan, chủ thể. Bài viết bàn về một số quy định pháp luật hiện hành về ủy quyền và ủy quyền trong ban hành quyết định hành chính ở nước ta hiện nay như: Chế định ủy quyền theo pháp luật dân sự; ủy quyền trong xử phạt vi phạm hành chính; ủy quyền trong lĩnh vực quản lý đất đai, đồng thời tác giả cũng đề xuất một số ý kiến nhằm hoàn thiện quy định về ủy quyền ban hành quyết định hành chính trong Dự thảo Luật Ban hành quyết định hành chính.

Hoạt động ủy quyền ban hành quyết định hành chính đóng vai trò hết sức quan trọng trong quản lý nhà nước. Tuy nhiên, cho đến nay, trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật ở nước ta vẫn chưa có một văn bản quy phạm pháp luật nào quy định một cách đầy đủ và thống nhất về vấn đề ủy quyền, dẫn đến việc ủy quyền diễn ra một cách tùy tiện, không rõ giới hạn, không rõ trách nhiệm của từng cấp, cơ quan, chủ thể. Vì thế, đã đến lúc chúng ta cần có cách nhìn nghiêm túc và cấp thiết hơn về vấn đề xây dựng chế định ủy quyền trong ban hành quyết định hành chính.

1. Một số quy định pháp luật về ủy quyền và ủy quyền trong ban hành quyết định hành chính ở nước ta hiện nay

1.1. Chế định ủy quyền theo pháp luật dân sự

Theo quy định của pháp luật dân sự, việc ủy quyền được xác lập thông qua hợp đồng ủy quyền, theo đó, đại diện theo ủy quyền là đại diện được xác lập theo sự ủy quyền giữa người đại diện và người được đại diện. Việc ủy quyền phải được lập thành văn bản. Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự không được làm người đại diện theo ủy quyền. Như vậy, một khi hai bên đã thỏa thuận xác lập hợp đồng ủy quyền, bên được ủy quyền có nghĩa vụ thực hiện công việc nhân danh bên ủy quyền và trong phạm vi ủy quyền, người được ủy quyền có quyền thay mặt người ủy quyền thực hiện một số hành vi nhất định làm phát sinh hậu quả liên quan đến quyền lợi của các bên trong quan hệ hợp đồng hoặc lợi ích của người đã ủy quyền trong phạm vi ủy quyền.

1.2. Ủy quyền trong xử phạt vi phạm hành chính

Theo Điều 54 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 và Nghị định số 81/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính thì người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính có thể ủy quyền cho cấp phó. Tuy nhiên, thay vì sử dụng thuật ngữ ủy quyền, Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 lại sử dụng thuật ngữ “giao quyền”, theo đó, việc giao quyền xử phạt vi phạm hành chính được thực hiện thường xuyên hoặc theo vụ việc, lĩnh vực cụ thể tùy vào tình hình thực tế. Việc giao quyền phải thực hiện bằng văn bản có chữ ký và đóng dấu của người có thẩm quyền. Cấp phó được giao quyền phải chịu trách nhiệm về quyết định xử phạt vi phạm hành chính của mình trước cấp trưởng và trước pháp luật, người được giao quyền không được ủy quyền lại cho bất kỳ người nào khác.

Như vậy, xét về mặt bản chất pháp lý, quan hệ ủy quyền theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 tồn tại 2 quan hệ: (i) Quan hệ giữa người ủy quyền và người được ủy quyền. Trong quan hệ này, người được ủy quyền có nghĩa vụ phải trực tiếp thực hiện các hành vi pháp lý trong phạm vi ủy quyền mà không được phép ủy quyền lại cho bên nào khác; (ii) Quan hệ giữa người được ủy quyền với bên thứ ba trong quan hệ pháp luật hành chính. Người được ủy quyền với tư cách của người ủy quyền thực hiện thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với các hành vi vi phạm pháp luật về hành chính. Người được ủy quyền có những quyền và nghĩa vụ nhất định đối với đối tượng bị xử phạt.

Theo các quy định pháp luật về xử lý vi phạm hành chính ở trên, người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính có thể ủy quyền cho cấp phó. Việc giao quyền phải thực hiện bằng văn bản có chữ ký và đóng dấu của người có thẩm quyền. Cấp phó được giao quyền phải chịu trách nhiệm về quyết định xử phạt vi phạm hành chính của mình trước cấp trưởng, trước pháp luật và không được ủy quyền lại cho bất kỳ người nào khác. Quy định này ban hành nhằm giảm áp lực cho cấp trưởng, đồng thời cải thiện vấn đề về thủ tục hành chính, giúp việc xử phạt vi phạm hành chính được tiến hành nhanh hơn. Tuy nhiên, quy định này có thể phát sinh vướng mắc, có ý kiến cho rằng, một khi cấp trưởng đã giao quyền xử phạt thuộc thẩm quyền của mình cho cấp phó thì đồng nghĩa với việc cấp trưởng đã tạm chuyển giao thẩm quyền xử phạt của mình cho cấp phó, cấp phó phải chịu trách nhiệm trước cấp trưởng và trước pháp luật. Vì vậy, cấp trưởng không còn thẩm quyền để ký các quyết định xử phạt trong phạm vi đã ủy quyền nữa (?). Mặc dù thực tế chưa xảy ra vướng mắc nêu trên, nhưng đây cũng là một tình huống mà chúng ta cần dự liệu để xem xét.

1.3. Ủy quyền trong lĩnh vực quản lý đất đai

Theo quy định tại khoản 1 Điều 105 Luật Đất đai năm 2013: “Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho tổ chức, cơ sở tôn giáo; người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thực hiện dự án đầu tư; tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao.

Ủy ban nhân dân cấp tỉnh được ủy quyền cho cơ quan tài nguyên và môi trường cùng cấp cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất”. Quy định này mang đến nhiều cách hiểu khác nhau cho cơ quan áp dụng pháp luật. Một số ý kiến cho rằng, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất vẫn do Ủy ban nhân dân ký tên và đóng dấu, vì đây mới thực sự là cơ quan có quyền. Nhưng quan điểm khác lại cho rằng, phải đóng dấu của Sở Tài nguyên và Môi trường mới hợp lý vì cơ quan này đã được ủy quyền, phải chịu mọi trách nhiệm trước cơ quan ủy quyền và trước pháp luật về vấn đề được ủy quyền, nên Ủy ban nhân dân không có quyền trong phạm vi này nữa (?).

Có thể thấy, trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước, vấn đề ủy quyền đóng vai trò hết sức to lớn, nhưng chế định về ủy quyền trong ban hành quyết định hành chính vẫn chưa được xác lập một cách rõ ràng và thống nhất trong hệ thống pháp luật. Mặc dù, trong hầu hết các văn bản luật đã đề cập đến vấn đề ủy quyền, nhưng quy định một cách chung chung, việc ủy quyền thiếu nguyên tắc, dẫn đến tình trạng không rõ giới hạn, phạm vi và trách nhiệm của từng cấp, từng cơ quan, cá nhân cụ thể.

2. Một số ý kiến nhằm hoàn thiện quy định về ủy quyền ban hành quyết định hành chính

Trong quá trình xây dựng Dự thảo Luật Ban hành quyết định hành chính, hầu hết các ý kiến tham gia xây dựng đều thống nhất với Ban soạn thảo về sự cần thiết phải quy định về chế định ủy quyền trong Luật Ban hành quyết định hành chính. Tuy nhiên, hiện vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề này.

Ý kiến thứ nhất cho rằng, Luật cần quy định về chế định ủy quyền theo hướng phân biệt giữa ủy quyền theo thẩm quyền và ủy quyền ký. Theo đó, việc ủy quyền theo thẩm quyền được hiểu là người ủy quyền có thể ủy quyền cho cấp phó hoặc cấp dưới trực tiếp về một mảng công việc có tính chất thường xuyên, ổn định. Việc ủy quyền được lập thành văn bản quy định rõ phạm vi ủy quyền. Trên cơ sở văn bản ủy quyền, cấp phó hoặc cấp dưới trực tiếp được ủy quyền thực hiện công việc, hành vi được giao một cách mặc định và phải chịu trách nhiệm về nội dung quyết định hành chính do mình ban hành.

Ủy quyền ký là ủy quyền cho cấp phó hoặc cấp dưới trực tiếp ký ban hành quyết định hành chính theo vụ việc trong một thời gian nhất định và không thường xuyên. Trong trường hợp này, người ủy quyền vẫn phải chịu trách nhiệm về nội dung của quyết định hành chính do người được ủy quyền ban hành trong phạm vi giới hạn ủy quyền.

Ý kiến thứ hai cho rằng, Luật chỉ nên cho phép người ủy quyền được ủy quyền cho cấp phó hoặc cấp dưới trực tiếp. Người được ủy quyền không được ủy quyền lại và trong mọi trường hợp, người ủy quyền vẫn phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định hành chính do người được ủy quyền ban hành, trừ trường hợp người được ủy quyền cố tình vượt quá phạm vi được ủy quyền.

Tác giả đồng ý với ý kiến thứ hai, bởi các lý do sau đây:

Một là, khác với các quan hệ dân sự hay lao động, quan hệ pháp luật hành chính mang tính đặc thù. Một bên chủ thể trong quan hệ pháp luật hành chính mang quyền lực nhà nước và nhân danh nhà nước tham gia vào các quan hệ hành chính. Trong quá trình quản lý nhà nước, các quyết định hành chính được ban hành có tầm ảnh hưởng rất lớn, nó không những tác động đến quyền và lợi ích của một cá nhân hay tập thể và còn có tác động mạnh mẽ đến lợi ích công đồng, của quốc gia như các quyết định về giải phóng mặt bằng, quyết định đầu tư… Vì vậy, pháp luật đã trao cho ai quyền thì người đó phải có trách nhiệm thực hiện thẩm quyền được giao, người ủy quyền cũng không thể lấy lý do đã ủy quyền mà thoái thác trách nhiệm đã được nhà nước và nhân dân tin tưởng giao phó. Do đó, pháp luật cần có những quy định mang tính cứng rắn và dứt khoát về trách nhiệm của người ủy quyền đối với các quyết định do người được ủy quyền ban hành.

Hai là, có một thực tế, nhiệm vụ đã được giao cho một cơ quan, một cá nhân cụ thể, nhưng cơ quan, cá nhân đó lại ủy quyền cho một cá nhân, cơ quan tiếp theo, cơ quan, cá nhân đó lại ủy quyền lại cho cơ quan, cá nhân khác... dẫn đến tình trạng rườm rà, thiếu minh bạch trong quá trình thực hiện pháp luật đặc biệt là trong tố tụng hành chính. Vì thế, sự cần thiết phải quy định rõ người được ủy quyền phải là cấp phó hoặc cấp dưới trực tiếp, đồng thời, người được ủy quyền không được phép ủy quyền lại và phải có trách nhiệm đối với quyết định do họ ban hành, điều này giúp xác định rõ chức năng, nhiệm vụ được giao tránh ủy quyền tràn lan, dẫn đến đùn đẩy trách nhiệm giữa người ủy quyền và người được ủy quyền.

Ba là, để vấn đề ủy quyền được thực hiện một cách thống nhất, thiết nghĩ, nên xây dựng hệ thống các quy định có tính nguyên tắc bao gồm: (i) Người ủy quyền là người có thẩm quyền ban hành quyết định hành chính và được phép ủy quyền trong phạm vi thẩm quyền được giao; (ii) Người được ủy quyền phải là cấp phó trực tiếp hoặc cấp dưới trực tiếp; (iii) Việc ủy quyền phải được lập thành văn bản; (iv) Người được ủy quyền phải chịu trác nhiệm trước người ủy quyền và trước pháp luật trong trường hợp vượt quá phạm vi ủy quyền dẫn đến vi phạm pháp luật...

ThS. Đặng Thị Hà

Đại học Luật thuộc Đại học Huế

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 11/6/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 120/2025/NĐ-CP quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 120/2025/NĐ-CP). Nghị định bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động bình thường, liên tục, thông suốt của các cơ quan; không để gián đoạn công việc, không để chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực, địa bàn; không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của xã hội, người dân, doanh nghiệp khi thực hiện chính quyền địa phương hai cấp từ ngày 01/7/2025 trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Nhằm thể chế hoá đầy đủ quan điểm chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phân quyền, phân cấp; bảo đảm việc triển khai nhiệm vụ được thông suốt, hiệu quả, kịp thời, cải cách tối đa thủ tục hành chính, giảm chi phí, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, Chính phủ ban hành Nghị định số 121/2025/NĐ-CP quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 121/2025/NĐ-CP).
Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng trong xây dựng Nghị định số 80/2025/NĐ-CP về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật được Chính phủ ban hành ngày 01/4/2025 (Nghị định số 80/2025/NĐ-CP).

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm