Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng pháp luật đã bộc lộ một số điểm thiếu sót, chưa thống nhất trong các quy định hiện hành dẫn đến khó khăn, vướng mắc trong việc đánh giá, kết luận về hành vi xâm phạm và xử lý vi phạm. Trong khi đó, theo đánh giá của các cơ quan chức năng, TMĐT tại Việt Nam đang có sự bứt phá mạnh mẽ với tốc độ tăng trưởng trung bình trong những năm qua là từ 25% - 30%/năm[1]. Song hành với tốc độ phát triển của TMĐT, tình trạng xâm phạm QTG trên nền tảng TMĐT ở nước ta đang có xu hướng mở rộng về phạm vi, gia tăng về số lượng và nghiêm trọng về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi. Chính vì vậy, việc nghiên cứu thực trạng các quy định về bảo vệ QTG trong TMĐT tại Việt Nam là cần thiết để từ đó đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật và nâng cao hiệu quả bảo vệ QTG trên nền tảng TMĐT.
1. Thực trạng pháp luật về bảo vệ quyền tác giả trong thương mại điện tử tại Việt Nam
Cơ sở pháp lý cho sự phát triển của TMĐT đã được hoàn thiện đáng kể, đáng chú ý là việc ban hành Luật Giao dịch điện tử năm 2005 và Luật Công nghệ thông tin năm 2006, Nghị định số 52/2013/NĐ-CP ngày 16/5/2013 của Chính phủ về TMĐT (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 08/2018/NĐ-CP ngày 15/01/2018 của Chính phủ sửa đổi một số nghị định liên quan đến điều kiện đầu tư kinh doanh thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Công Thương) và Nghị định số 72/2013/NĐ-CP ngày 15/7/2013 của Chính phủ về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng. Đặc biệt, các nội dung liên quan đến xác định phạm vi bảo hộ và bảo vệ QTG nói chung và bảo vệ QTG trong TMĐT nói riêng đã được quy định khá chi tiết trong Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, được sửa đổi, bổ sung năm 2009 và năm 2019 (Luật Sở hữu trí tuệ); Điều 225 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định về tội xâm phạm QTG, quyền liên quan và các văn bản dưới luật như: Nghị định số 22/2018/NĐ-CP ngày 23/02/2018 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2009 về QTG, quyền liên quan (Nghị định số 22/2018/NĐ-CP); Nghị định số 105/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều Luật Sở hữu trí tuệ về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ, được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 119/2010/NĐ-CP ngày 30/12/2010 của Chính phủ; Nghị định số 131/2013/NĐ-CP ngày 16/10/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về QTG, quyền liên quan, được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 28/2017/NĐ-CP ngày 20/3/2017 của Chính phủ (Nghị định số 131/2013/NĐ-CP); Thông tư liên tịch số 07/2012/TTLT-BTTTT-BVHTTDL ngày 19/6/2012 của Bộ Thông tin và Truyền thông và Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quy định trách nhiệm của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian trong việc bảo hộ QTG và quyền liên quan trên môi trường mạng internet và mạng viễn thông (Thông tư liên tịch số 07/2012/TTLT-BTTTT-BVHTTDL).
Pháp luật Việt Nam hiện hành đã có quy định nhằm giải quyết các vấn đề liên quan đến hành vi khai thác tác phẩm mới trong TMĐT, cụ thể, khoản 2 Điều 21 Nghị định số 22/2018/NĐ-CP quy định, quyền sao chép tác phẩm là quyền của chủ sở hữu QTG độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện việc tạo ra bản sao tác phẩm bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào, bao gồm cả việc tạo ra bản sao dưới hình thức điện tử. Bên cạnh đó, quyền truyền đạt tác phẩm đến công chúng được hiểu là quyền của chủ sở hữu QTG độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện việc đưa tác phẩm hoặc bản sao tác phẩm đến công chúng mà công chúng có thể tiếp cận được tại địa điểm và thời gian do chính họ lựa chọn (khoản 4 Điều 21 Nghị định số 22/2018/NĐ-CP).
Đồng thời, các khoản 10, 12, 13, 14 Điều 28 Luật Sở hữu trí tuệ quy định các hành vi xâm phạm QTG trong TMĐT bao gồm: (i) Nhân bản, sản xuất bản sao, phân phối, trưng bày hoặc truyền đạt tác phẩm đến công chúng qua mạng truyền thông và các phương tiện kỹ thuật số mà không được phép của chủ sở hữu QTG; (ii) Cố ý hủy bỏ hoặc làm vô hiệu các biện pháp kỹ thuật do chủ sở hữu QTG thực hiện để bảo vệ QTG đối với tác phẩm của mình; (iii) Cố ý xóa, thay đổi thông tin quản lý quyền dưới hình thức điện tử có trong tác phẩm; (iv) Sản xuất, lắp ráp, biến đổi, phân phối, nhập khẩu, xuất khẩu, bán hoặc cho thuê thiết bị khi biết hoặc có cơ sở để biết thiết bị đó làm vô hiệu các biện pháp kỹ thuật do chủ sở hữu QTG thực hiện để bảo vệ QTG đối với tác phẩm của mình.
Tuy nhiên, các quy định hiện hành chưa có sự phân biệt giữa các bản sao điện tử cố định và các bản sao tạm thời trong quá trình truyền đưa, trình duyệt nội dung cũng như chưa có án lệ và hướng dẫn liên quan tới hành vi xem trực tuyến hay liên kết website TMĐT. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng chưa giới hạn trách nhiệm đối với việc vô hiệu hóa và tạo điều kiện cho việc vô hiệu hóa DRM (Digital Rights Management - Quản lý bản quyền nội dung số) như một dạng trách nhiệm đối với hành vi tạo điều kiện cho việc xâm phạm các độc quyền của chủ sở hữu QTG. Ngoài ra, Việt Nam cũng chưa có quy định về ngoại lệ đối với việc vô hiệu hóa các biện pháp kỹ thuật nhằm đảm bảo thực thi các hành vi sử dụng hợp lý được phép theo quy định của luật và chưa có quy định về ngoại lệ đối với hành vi cung cấp các thiết bị có khả năng can thiệp vào DRM nhưng có mục đích hợp pháp là chủ yếu.
Hơn nữa, Nghị định số 131/2013/NĐ-CP đã có nhiều thay đổi tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực thi QTG trong môi trường TMĐT như đưa ra nguyên tắc xác định mức xử phạt hành chính đối với xâm phạm QTG dựa trên hành vi xâm phạm chứ không phải là giá trị hàng hóa bị xâm phạm QTG; quy định cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi xâm phạm còn bị buộc thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả như: Buộc sửa lại đúng tên tác giả, tên tác phẩm; buộc dỡ bỏ bản sao tác phẩm xâm phạm QTG dưới hình thức điện tử, trên môi trường internet và kỹ thuật số (Điều 3). Đặc biệt, Điều 20 Nghị định số 131/2013/NĐ-CP quy định mức phạt đối với hành vi xâm phạm quyền áp dụng biện pháp công nghệ để tự bảo vệ QTG dưới ba dạng (xóa bỏ thông tin quản lý quyền, vô hiệu hóa biện pháp kỹ thuật và cung cấp thiết bị hoặc tạo điều kiện cho việc can thiệp và vô hiệu hóa DRM) với hai biện pháp khắc phục hậu quả là buộc tái xuất và buộc tiêu hủy tang vật vi phạm. Tuy nhiên, Nghị định này chưa đề cập tới khả năng miễn trách nhiệm đối với các hành vi vô hiệu hóa.
Liên quan đến cơ chế trách nhiệm giới hạn đối với xâm phạm QTG của các ISP (Internet Service Provider - Nhà cung cấp dịch vụ internet), Luật Công nghệ thông tin năm 2006 đã có cách tiếp cận theo chiều ngang - điều chỉnh trách nhiệm của các trung gian trực tuyến trên mọi lĩnh vực như xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, thông tin mang nội dung xấu... Mặt khác, Luật Công nghệ thông tin năm 2006 đã sử dụng cách phân loại và quy định điều kiện miễn trách nhiệm theo các chức năng chính: Truyền đưa thông tin số (Điều 16), lưu trữ tạm thời thông tin số (Điều 17), cho thuê chỗ lưu trữ thông tin số (Điều 18) và công cụ tìm kiếm thông tin số (Điều 19). Theo Luật Công nghệ thông tin năm 2006, các ISP cũng không phải chịu trách nhiệm theo dõi, giám sát thông tin, điều tra các hành vi vi phạm pháp luật xảy ra trong quá trình truyền đưa hoặc lưu trữ thông tin số của tổ chức, cá nhân khác, hay cung cấp thông tin về khách hàng, trừ trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu cầu (Điều 20). Tuy nhiên, cho dù có quy định về cơ chế thông báo và dỡ bỏ liên quan đến điều kiện miễn trách nhiệm của các ISP cho thuê chỗ lưu trữ và các công cụ tìm kiếm thông tin, thì theo Luật Công nghệ thông tin năm 2006, các ISP này chỉ phải dỡ bỏ các nội dung xâm phạm QTG trong trường hợp tự mình phát hiện hoặc bị bắt buộc theo lệnh của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Khi đề cập tới việc các ISP sẽ dỡ bỏ thông tin khi tự mình phát hiện, quy định này chủ yếu dựa vào sự hợp tác của ISP nhưng không có ràng buộc cho sự hợp tác này, thiếu quy định về hiểu biết thực tế và suy đoán đối với ISP. Ngoài ra, việc không có quy định nào làm căn cứ để chủ sở hữu QTG có thể gửi thông báo khuyến cáo ISP về hành vi xâm phạm QTG và thủ tục pháp lý để ISP dỡ bỏ các nội dung xâm phạm sau khi nhận được thông báo đó đã làm hạn chế đáng kể việc thực thi quyền của các chủ thể QTG tại Việt Nam.
Với nỗ lực đưa ra một quy định “theo chiều dọc” điều chỉnh trách nhiệm của các ISP liên quan đến QTG, Bộ Thông tin và Truyền thông và Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ban hành Thông tư liên tịch số 07/2012/TTLT-BTTTT-BVHTTDL. Khi xét tới các đối tượng áp dụng là các ISP, Thông tư liên tịch này đã có một bước tiến khi đề cập đến các ISP kiểu mới như các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ mạng xã hội trực tuyến và các doanh nghiệp viễn thông. Tuy nhiên, Thông tư liên tịch số 07/2012/TTLT-BTTTT-BVHTTDL về cơ bản chỉ quy định trách nhiệm của ISP (Điều 5) và quy định này không có gì mới so với Luật Công nghệ thông tin và Luật Sở hữu trí tuệ. Thông tư liên tịch này đã không quy định trách nhiệm đối với từng loại ISP theo chức năng hay hoạt động mà ISP thực hiện trong khi cơ chế trách nhiệm đối với các ISP thực hiện các chức năng riêng biệt chắc chắn là không giống nhau do vai trò của chúng trong việc phổ biến nội dung của bên thứ ba là khác nhau. Chính việc không phân loại này đã dẫn đến một số điều khoản của Thông tư liên tịch số 07/2012/TTLT-BTTTT-BVHTTDL không có khả năng áp dụng, ví dụ như trách nhiệm “lưu trữ nội dung thông tin số trong hệ thống cung cấp dịch vụ của mình chỉ mang tính chất trung chuyển, tạm thời, tự động, có thời hạn, đủ để đáp ứng yêu cầu kỹ thuật của việc truyền tải nội dung” quy định tại khoản 1 Điều 5 chắc chắn không thể áp dụng với ISP lưu trữ thông tin số; tương tự, trách nhiệm dỡ bỏ và xóa nội dung thông tin số khi nhận được yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền theo khoản 3 Điều 5 cũng không áp dụng cho các doanh nghiệp truyền đưa đơn thuần hay cung cấp dịch vụ truy cập internet.
2. Một số giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật và nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền tác giả trên nền tảng thương mại điện tử
Việc nâng cao hiệu quả bảo hộ QTG trong TMĐT là yêu cầu rất khó khăn, là thách thức lớn đối với hệ thống pháp luật Việt Nam cũng như các cơ quan thực thi. Tuy nhiên, đây là nhiệm vụ tất yếu Việt Nam phải thực hiện trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền định hướng xã hội chủ nghĩa, cũng như để phù hợp với tiến trình hội nhập quốc tế sâu rộng. Các giải pháp được nêu sau đây góp phần giải quyết những khó khăn, thách thức đó.
Thứ nhất, cần sớm ban hành một văn bản quy phạm pháp luật riêng về bảo hộ quyền tác giả trong thương mại điện tử
Hiện nay, các quy định về bảo vệ QTG trong TMĐT được quy định chung trong Luật Sở hữu trí tuệ và nhiều văn bản chuyên ngành khác như Luật Công nghệ thông tin năm 2006, Luật Giao dịch điện tử năm 2005 và các văn bản về TMĐT. Điều này dẫn đến thực trạng khó tra cứu và áp dụng thống nhất các quy định của pháp luật, đặc biệt là những quy định mang tính đặc thù về bảo vệ QTG trong TMĐT. Do đó, học tập kinh nghiệm của một số quốc gia, trong đó có Hoa Kỳ, Việt Nam cần ban hành các quy định riêng, thống nhất về bảo hộ QTG trong TMĐT, không chỉ là vấn đề hình thức và kỹ thuật mà còn thể hiện được tính đặc thù, tính khác biệt trong việc bảo hộ QTG giữa môi trường truyền thống và trong TMĐT. Điều này là phù hợp với xu hướng chung của thế giới về lĩnh vực này.
Thứ hai, sửa đổi, bổ sung một số quy định mang tính đặc thù về bảo hộ quyền tác giả trong thương mại điện tử của Luật Sở hữu trí tuệ và các văn bản liên quan khác
- Bổ sung quy định về quyền sao chép tạm thời, có sự phân biệt giữa các bản sao điện tử cố định và các bản sao tạm thời trong quá trình truyền đưa, trình duyệt nội dung. Về phương diện công nghệ, trong môi trường kỹ thuật số, mọi đối tượng của QTG đều có thể định hình bằng tệp dữ liệu sao cho dựa vào đó đối tượng có thể được nhận biết, sao chép, truyền đạt đến công chúng. Việc truyền dữ liệu trong môi trường kỹ thuật số hiện nay được thực hiện bởi công nghệ “nối chuyền gói”, sử dụng bộ giao thức internet TCP/IP. Hệ quả của việc sử dụng công nghệ trên là bản sao tạm thời của dữ liệu luôn phải được tạo ra tại bộ nhớ của máy tính (RAM) ở nút trung gian trên mạng hoặc bộ nhớ động của thiết bị thực hiện chức năng tương tự như vậy trong quy trình truyền dữ liệu[2].
Vấn đề đặt ra là, bản sao tạm thời trong môi trường kỹ thuật số có được xem là đối tượng được bảo hộ QTG hay không? Học tập kinh nghiệm của một số quốc gia, để xác định bản sao tạm thời nào là đối tượng được bảo hộ QTG, pháp luật Việt Nam nên quy định căn cứ vào thời gian tồn tại của dữ liệu trong RAM. Nếu thời gian tồn tại trong RAM quá ngắn, bản sao chỉ được xem là mang tính chuyển tiếp và khi tắt nguồn máy tính, bản sao tạm thời đó sẽ mất đi hoàn toàn thì sẽ không phải là đối tượng được bảo hộ QTG, đồng nghĩa với việc các chủ thể tạo ra bản sao tạm thời trong tình huống này không xâm phạm QTG.
- Bổ sung các biện pháp chế tài mang tính đặc thù để áp dụng đối với hành vi xâm phạm QTG trong TMĐT, cụ thể, việc áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại và biện pháp xử phạt đối với các hành vi xâm phạm QTG trong TMĐT cần thể hiện tính đặc thù so với môi trường truyền thống bởi sự khó khăn trong việc thu thập chứng cứ cũng như thiệt hại do hành vi xâm phạm trong TMĐT mang lại thiệt hại nghiêm trọng hơn cho chủ thể quyền. Ngoài ra, cơ sở để đánh giá mức giảm sút về thu nhập, lợi nhuận, tổn thất về cơ hội kinh doanh đối với lĩnh vực QTG trong TMĐT cũng đặc biệt khó khăn vì việc sử dụng tác phẩm phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như tâm lý của công chúng, khả năng thẩm thấu nghệ thuật… Do vậy, cách thức xác định thiệt hại cũng như cách tính mức độ bồi thường thiệt hại cũng phải thể hiện rõ sự khác biệt sao cho tương ứng với những thiệt hại về vật chất và tinh thần mà chủ thể quyền có thể bị mất do hành vi xâm phạm QTG mang lại. Tương tự, biện pháp xử phạt phải cụ thể đối với từng hành vi xâm phạm QTG trong TMĐT và đủ mạnh không chỉ nhằm để trừng trị mà còn có tính chất răn đe các chủ thể thực hiện các hành vi này.
- Bổ sung quy định giới hạn trách nhiệm đối với việc vô hiệu hóa và tạo điều kiện cho việc vô hiệu hóa các DRM như một dạng trách nhiệm đối với hành vi tạo điều kiện cho việc xâm phạm các độc quyền của chủ sở hữu QTG. Ngoài ra, cần bổ sung quy định về ngoại lệ đối với việc vô hiệu hóa các biện pháp kỹ thuật nhằm đảm bảo thực thi các hành vi sử dụng hợp lý được phép theo quy định của luật và quy định về ngoại lệ đối với hành vi cung cấp các thiết bị có khả năng can thiệp vào các DRM nhưng có mục đích hợp pháp là chủ yếu.
- Bổ sung quy định xác định rõ trách nhiệm của các cá nhân, tổ chức cung cấp dịch vụ internet trong trường hợp đối tượng của QTG bị xâm phạm trong TMĐT. Pháp luật cần xác định rõ nhà cung cấp dịch vụ internet có vai trò quan trọng trong việc phát tán các đối tượng xâm phạm QTG trong TMĐT. Tùy mức độ và tính chất của vụ việc, các nhà cung cấp phải chịu trách nhiệm (dân sự, hành chính và có thể cả hình sự) trước các cơ quan nhà nước, trước chủ thể quyền để ngăn chặn các hành vi lưu trữ và truyền đưa các đối tượng đã được bảo hộ QTG trong TMĐT mà chưa được phép của chủ thể quyền. Ngoài ra, pháp luật cần có quy định là cơ sở để chủ sở hữu QTG có thể gửi thông báo khuyến cáo ISP về hành vi xâm phạm QTG và thủ tục pháp lý để ISP dỡ bỏ các nội dung xâm phạm sau khi nhận được thông báo đó để đảm bảo việc thực thi quyền của các chủ thể QTG tại Việt Nam.
- Sửa đổi Thông tư liên tịch số 07/2012/TTLT-BTTTT-BVHTTDL theo hướng quy định trách nhiệm đối với từng loại ISP theo chức năng hay hoạt động mà ISP thực hiện thay vì quy định theo chiều dọc như hiện nay.
Thứ ba, nâng cao năng lực kiểm tra, xử lý hành vi xâm phạm quyền tác giả trong thương mại điện tử của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
Công tác thanh tra, kiểm tra và xử phạt hành vi xâm phạm cần được tiến hành thường xuyên, triển khai đồng bộ trong phạm vi cả nước để phát hiện và ngăn chặn kịp thời các hành vi xâm phạm QTG trong môi trường TMĐT. Do đó, Nhà nước cần có chế độ tuyển chọn, đào tạo, nâng cao năng lực cho đội ngũ thực thi QTG trong TMĐT; đồng thời, cần thường xuyên tổ chức tập huấn cho các cán bộ về xây dựng quy trình, cách thức đạt tiêu chuẩn để các cán bộ thống nhất thực hiện.
Thứ tư, nâng cao nhận thức chấp hành pháp luật của người sử dụng tác phẩm
Để nâng cao ý thức của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và người sử dụng các tác phẩm, cần tăng cường hoạt động tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp luật về QTG, đặc biệt là việc sử dụng các tác phẩm trong TMĐT với các biện pháp như tổ chức các cuộc tọa đàm, diễn đàn, hội thi, hội nghị, hội thảo... Bên cạnh đó, nội dung giáo dục về QTG cần đưa vào trong chương trình đại học, cao đẳng để nâng cao nhận thức cho học sinh, sinh viên. Ngoài ra, cần tiến hành phổ biến pháp luật về QTG một cách dễ hiểu nhất trên các sách, báo, tạp chí... đặc biệt là việc sử dụng mạng internet, môi trường kỹ thuật số để tuyên truyền, phổ biến pháp luật về QTG, công khai lên các phương tiện thông tin những thiệt hại do vi phạm gây ra để người sử dụng nhận thấy tầm quan trọng trong việc bảo vệ QTG. Các hiệp hội, tổ chức bảo vệ QTG cần thường xuyên tổ chức các buổi hội thảo, báo cáo tình hình hoạt động, công khai minh bạch công tác quản lý để củng cố uy tín trong xã hội, tạo niềm tin cho các hội viên và định hướng được nhận thức của người dân trong vấn đề QTG.
Thứ năm, tăng cường hợp tác quốc tế trong bảo hộ và bảo vệ quyền tác giả trong thương mại điện tử
TMĐT có tính chất toàn cầu, vì vậy, QTG trong môi trường internet là một đối tượng có phạm vi sử dụng, khai thác vượt qua khỏi sự kiểm soát của một quốc gia, do đó, cần có một mối quan hệ hợp tác quốc tế chặt chẽ. Cụ thể:
- Cần tăng cường tham gia ký kết và thực thi nghiêm chỉnh các điều ước quốc tế về bảo hộ QTG. Thông qua đó, Việt Nam có thể tranh thủ sự hỗ trợ, hợp tác của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới, các tổ chức quốc tế liên quan, học hỏi kinh nghiệm của các quốc gia nhằm tiếp thu những kinh nghiệm về lập pháp, quản lý và thực thi QTG đối với tác phẩm nghệ thuật trong TMĐT.
- Tiếp tục tăng cường việc đào tạo đội ngũ SHTT tại nước ngoài, nhất là chuyên gia về QTG gắn với TMĐT ở các nước phát triển về khoa học công nghệ như Hoa Kỳ, Nhật Bản - những quốc gia có nhiều kinh nghiệm trong việc xử lý các vấn đề liên quan đến bảo hộ QTG trong TMĐT.
- Tạo các điều kiện thuận lợi để các cá nhân, tổ chức trong nước hợp tác với các quốc gia và tổ chức nước ngoài về SHTT, trong đó có QTG trong TMĐT, ví dụ như triển khai các dự án hợp tác quốc tế liên quan đến việc tăng cường bảo hộ SHTT tại Việt Nam.
Đại học Luật Hà Nội
[1]. Hồng Hạnh, Cam kết “Nói không với hàng giả trong thương mại điện tử”, đăng tại https://moit.gov.vn/web/guest/tin-chi-tiet/-/chi-tiet/cam-ket-noi-khong-voi-hang-gia-trong-thuong-mai-%C4%91ien-tu—15112-1001.html, đăng ngày 18/4/2019.
[2]. Đỗ Khắc Chiến (2014), “Về bảo hộ quyền tác giả trong môi trường internet”, Tham luận tại Hội thảo Bảo hộ quyền tác giả trong môi trường số tại Việt Nam, tổ chức tại TP. Hồ Chí Minh.