Thứ ba 17/06/2025 02:17
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Biên bản vi phạm hành chính - Khó khăn, vướng mắc và đề xuất, kiến nghị

Biên bản vi phạm hành chính - Khó khăn, vướng mắc và đề xuất, kiến nghị

Bài viết trao đổi về nội dung của biên bản vi phạm hành chính, những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng, từ đó, tác giả có một số đề xuất, kiến nghị nhằm khắc phục những khó khăn, vướng mắc này.

1. Nội dung biên bản vi phạm hành chính

Theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, được sửa đổi, bổ sung năm 2020 (sau đây gọi tắt là Luật Xử lý vi phạm hành chính), biên bản vi phạm hành chính có các nội dung chủ yếu, bao gồm[1]: (i) Thời gian, địa điểm lập biên bản; (ii) Thông tin về người lập biên bản, cá nhân, tổ chức vi phạm và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan; (iii) Thời gian, địa điểm xảy ra vi phạm; mô tả vụ việc; hành vi vi phạm; (iv) Lời khai của người vi phạm hoặc đại diện tổ chức vi phạm, người chứng kiến, người bị thiệt hại hoặc đại diện tổ chức bị thiệt hại; (v) Biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính; (vi) Quyền và thời hạn giải trình.

Theo quy định của Nghị định số 118/2021/NĐ-CP ngày 23/12/2021 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính (Nghị định số 118/2021/NĐ-CP), biên bản vi phạm hành chính phải bao gồm các nội dung cơ bản sau đây[2]: (i) Ngày, tháng, năm, địa điểm lập biên bản; (ii) Họ và tên, chức vụ người lập biên bản; (iii) Thông tin về cá nhân, tổ chức vi phạm và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan; (iv) Giờ, ngày, tháng, năm, địa điểm xảy ra vi phạm; (v) Mô tả cụ thể, đầy đủ vụ việc, hành vi vi phạm; (vi) Biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính; (vii) Lời khai của người vi phạm hoặc đại diện tổ chức vi phạm (đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền); (viii) Lời khai của người chứng kiến, người bị thiệt hại hoặc đại diện tổ chức bị thiệt hại (nếu có); ý kiến của cha mẹ hoặc của người giám hộ trong trường hợp người chưa thành niên vi phạm hành chính (nếu có); (ix) Quyền và thời hạn giải trình về vi phạm hành chính của cá nhân, tổ chức vi phạm, cơ quan của người có thẩm quyền tiếp nhận giải trình; trường hợp cá nhân, tổ chức không yêu cầu giải trình, thì phải ghi rõ ý kiến vào biên bản; (x) Thời gian, địa điểm người vi phạm hoặc đại diện tổ chức vi phạm phải có mặt để giải quyết vụ việc; (xi) Họ và tên người nhận, thời gian nhận biên bản trong trường hợp biên bản được giao trực tiếp.

Trên cơ sở các nội dung biên bản vi phạm hành chính nêu trên, Nghị định số 118/2021/NĐ-CP đã ban hành mẫu biên bản số 01 (MBB01). Tuy nhiên, thời gian qua đã phát sinh một số khó khăn, vướng mắc, cụ thể:

Thứ nhất, theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính và Nghị định số 118/2021/NĐ-CP, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ không phải là nội dung bắt buộc phải có trong biên bản vi phạm hành chính và hiện nay, tại MBB01 không có thông tin ghi về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ. Vậy, khi phát hiện vụ việc vi phạm hành chính mà cá nhân, tổ chức có tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ mà người lập biên bản vi phạm hành chính muốn ghi thông tin vào biên bản để trình người có thẩm quyền xử phạt thì có ghi được không và nếu được thì ghi ở đâu trong biên bản vi phạm hành chính. Liên quan đến vấn đề này, hiện có hai ý kiến khác nhau:

Ý kiến thứ nhất cho rằng, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ là thông tin không bắt buộc phải ghi trong biên bản vi phạm hành chính. Tuy nhiên, tại thời điểm lập biên bản vi phạm hành chính, nếu xác định được các tình tiết tặng nặng, giảm nhẹ để áp dụng đối với cá nhân, tổ chức vi phạm, thì người có thẩm quyền đang thụ lý vụ việc có thể ghi các tình tiết này vào trong biên bản vi phạm hành chính. Theo đó, người có thẩm quyền đang thụ lý vụ việc có thể ghi các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ vào sau mục 7 (Ý kiến trình bày của cá nhân/tổ chức bị thiệt hại (nếu có)), MBB01.

Ý kiến thứ hai cho rằng, do tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ không phải là nội dung bắt buộc phải có trong biên bản vi phạm hành chính và tại MBB01 cũng không có thông tin ghi về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ nên khi phát hiện vụ việc vi phạm hành chính mà cá nhân, tổ chức có tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ thì người lập biên bản vi phạm hành chính không ghi vào biên bản vi phạm hành chính. Khi xem xét ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính, trong trường hợp cần thiết, người có thẩm quyền xử phạt có trách nhiệm xác minh các tình tiết, trong đó có tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và tại mẫu biên bản xác minh tình tiết của vụ việc vi phạm hành chính (MBB05) cũng có mục ghi thông tin về tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng.

Tác giả đồng tình với ý kiến thứ nhất, vì mặc dù trong nội dung biên bản vi phạm hành chính theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính và Nghị định số 118/2021/NĐ-CP không có nội dung về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, tuy nhiên, việc ghi tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ đối với cá nhân, tổ chức vi phạm tại thời điểm lập biên bản vi phạm hành chính là rất cần thiết để bảo đảm sự nghiêm minh, công bằng, đúng đối tượng vi phạm, phù hợp với tính chất, mức độ của hành vi vi phạm hành chính và hậu quả do hành vi vi phạm hành chính gây ra. Đồng thời, việc ghi nhận tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ để áp dụng đối với cá nhân, tổ chức vi phạm tại thời điểm lập biên bản vi phạm hành chính còn hạn chế tình trạng phải lập biên bản xác minh tình tiết của vụ việc vi phạm hành chính trong trường phải phải xác minh tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ, bảo đảm tính kịp thời trong xử phạt vi phạm hành chính.

Thứ hai, theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính và Nghị định số 118/2021/NĐ-CP, trong biên bản vi phạm hành chính có nội dung về “quyền và thời hạn giải trình”[3], “quyền và thời hạn giải trình về vi phạm hành chính của cá nhân, tổ chức vi phạm, cơ quan của người có thẩm quyền tiếp nhận giải trình; trường hợp cá nhân, tổ chức không yêu cầu giải trình, thì phải ghi rõ ý kiến vào biên bản”[4]. Bên cạnh đó, Nghị định số 118/2021/NĐ-CP cũng quy định: “Trường hợp khi lập biên bản vi phạm hành chính chưa xác định được người có thẩm quyền xử phạt, thì cá nhân, tổ chức vi phạm gửi văn bản giải trình đến người có thẩm quyền lập biên bản. Người có thẩm quyền lập biên bản chuyển hồ sơ vụ việc cùng văn bản giải trình cho người có thẩm quyền ngay khi xác định được thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính” (khoản 4 Điều 12 ). Tuy nhiên, hiện nay, theo hướng dẫn tại chú thích số 15 MBB01 ban hành kèm theo Nghị định số 118/2021/NĐ-CP về việc cá nhân, người đại diện của tổ chức vi phạm gửi văn bản giải trình/văn bản yêu cầu được giải trình trực tiếp đến người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính, thì ghi là “Ghi chức danh và tên cơ quan của người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với vụ việc”. Đây là một khó khăn, vướng mắc đối với người có thẩm quyền khi lập biên bản vi phạm hành chính trong trường hợp vụ việc thuộc trường hợp giải trình mà chưa xác định được người có thẩm quyền xử phạt vì chưa có sự thống nhất giữa quy định tại nội dung của khoản 4 Điều 17 Nghị định số 118/2021/NĐ-CP và hướng dẫn về cách ghi tại MBB01.

2. Thời hạn lập và chuyển biên bản vi phạm hành chính

Theo quy định tại Điều 58 Luật Xử lý vi phạm hành chính: “Khi phát hiện hành vi vi phạm hành chính thuộc lĩnh vực quản lý của mình, người có thẩm quyền đang thi hành công vụ phải kịp thời lập biên bản vi phạm hành chính, trừ trường hợp xử phạt không lập biên bản quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật này”.

Để hướng dẫn chi tiết về thời hạn lập biên bản vi phạm hành chính, khoản 2 Điều 12 Nghị định số 118/2021/NĐ-CP quy định:

- Biên bản vi phạm hành chính được lập trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ khi phát hiện vi phạm hành chính;

- Trường hợp vụ việc có nhiều tình tiết phức tạp hoặc có phạm vi rộng, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, thì biên bản vi phạm hành chính được lập trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ khi phát hiện vi phạm hành chính;

- Trường hợp vi phạm hành chính được phát hiện bằng phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ hoặc phải xác định giá trị tang vật, phương tiện, giám định, kiểm nghiệm, kiểm định, xét nghiệm và xác minh tình tiết liên quan, thì biên bản vi phạm hành chính được lập trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày xác định được đối tượng vi phạm bằng phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ hoặc nhận được kết quả xác định giá trị tang vật, phương tiện, giám định, kiểm nghiệm, kiểm định, xét nghiệm và xác minh tình tiết liên quan;

- Trường hợp vi phạm hành chính xảy ra trên tàu bay, tàu biển, tàu hỏa, thì người có thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính hoặc người chỉ huy tàu bay, thuyền trưởng, trưởng tàu có trách nhiệm lập biên bản vi phạm hành chính và chuyển cho người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ khi tàu bay, tàu biển, tàu hỏa về đến sân bay, bến cảng, nhà ga;

- Trường hợp một vụ việc có nhiều hành vi vi phạm hành chính khác nhau, trong đó có hành vi được phát hiện bằng phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ hoặc phải xác định giá trị tang vật, phương tiện, giám định, kiểm nghiệm, kiểm định, xét nghiệm và xác minh tình tiết liên quan, thì biên bản vi phạm hành chính được lập đối với các hành vi trong vụ việc đó trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày xác định được đối tượng vi phạm bằng phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ hoặc nhận được đầy đủ kết quả xác định giá trị tang vật, phương tiện, giám định, kiểm nghiệm, kiểm định, xét nghiệm và xác minh tình tiết liên quan.

Như vậy, Nghị định số 118/2021/NĐ-CP đã quy định cụ thể thời hạn phải lập biên bản vi phạm hành chính (02 ngày làm việc, 03 ngày làm việc, 05 ngày làm việc, tùy từng trường hợp). Tuy nhiên, trên thực tế thực hiện các quy định này cho thấy, vì nhiều lý do khác nhau, biên bản vi phạm hành chính được lập thường bị quá thời hạn theo quy định của Nghị định số 118/2021/NĐ-CP. Vậy, trong trường hợp biên bản vi phạm hành chính được lập vi phạm về thời hạn lập biên bản vi phạm hành chính, thì người có thẩm quyền xử phạt có được ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính hay không? Liên quan đến vấn đề này, hiện nay, có hai ý kiến khác nhau:

Ý kiến thứ nhất cho rằng, biên bản vi phạm hành chính được lập quá thời hạn theo quy định của Nghị định số 118/2021/NĐ-CP thì không xử phạt đối với trường hợp này. Tuy nhiên, việc không ban hành quyết định xử phạt sẽ dẫn đến hậu quả là hành vi vi phạm hành chính còn thời hiệu xử phạt nhưng không bị xử phạt và vụ việc vi phạm vẫn tồn tại trên thực tế. Nếu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính thuộc loại cấm tàng trữ, cấm lưu hành hoặc pháp luật có quy định tịch thu mà không xử lý tịch thu được phải trả lại cho đối tượng vi phạm là bất hợp lý, chưa bảo đảm nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính của Luật Xử lý vi phạm hành chính: “Mọi vi phạm hành chính phải được phát hiện, ngăn chặn kịp thời và phải bị xử lý nghiêm minh, mọi hậu quả do vi phạm hành chính gây ra phải được khắc phục theo đúng quy định của pháp luật”[5]. Đồng thời, chưua phù hợp với quy định tại Điều 65 Luật Xử lý vi phạm hành chính vì việc lập biên bản vi phạm hành chính quá thời hạn không thuộc trường hợp không ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính.

Ý kiến thứ hai cho rằng, vi phạm về thời hạn lập biên bản vi phạm hành chính là vi phạm về thủ tục, không làm thay đổi bản chất của vụ việc là có hành vi vi phạm và phải bị xử phạt vi phạm hành chính để bảo đảm nguyên tắc xử phạt quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính. Do vậy, trường hợp quyết định xử phạt vi phạm hành chính được ban hành trên cơ sở biên bản vi phạm hành chính được lập quá thời hạn quy định thì người có thẩm quyền căn cứ quy định tại điểm c khoản 1 Điều 13 Nghị định số 118/2021/NĐ-CP để hủy bỏ quyết định này. Sau đó, nếu có căn cứ ban hành quyết định mới thì người có thẩm quyền xử phạt lập biên bản xác minh tình tiết của vụ việc vi phạm hành chính theo quy định tại khoản 3 Điều 15 Nghị định số 118/2021/NĐ-CP và ban hành quyết định xử phạt mới trên cơ sở biên bản xác minh tình tiết của vụ việc vi phạm hành chính.

Tác giả cho rằng, trường hợp đã quá thời hạn lập biên bản thì không được lập biên bản vi phạm hành chính, nếu đã lập biên bản vi phạm hành chính quá thời hạn theo quy định tại Nghị định số 118/2021/NĐ-CP thì cũng không ban hành quyết định xử phạt đối với trường hợp này, vì có ban hành quyết định xử phạt thì quyết định xử phạt cũng sẽ bị hủy bỏ toàn bộ theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 13 Nghị định số 118/2021/NĐ-CP. Việc xác định nếu có căn cứ ban hành quyết định mới trong trường hợp vi phạm về thời hạn lập biên bản vi phạm hành chính (vi phạm về thủ tục xử phạt) thì người có thẩm quyền xử phạt lập biên bản xác minh tình tiết của vụ việc vi phạm hành chính theo quy định tại khoản 3 Điều 15 Nghị định số 118/2021/NĐ-CP và ban hành quyết định xử phạt mới trên cơ sở biên bản xác minh tình tiết của vụ việc vi phạm hành chính là rất khó khăn đối với người có thẩm quyền xử phạt. Một bất cập nữa là, hiện nay, nếu căn cứ vào Điều 65 Luật Xử lý vi phạm hành chính về những trường hợp không ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính thì vi phạm về thủ tục ban hành quyết định xử phạt không thuộc trường hợp để không ban hành quyết định xử phạt. Do vậy, trong thời gian tới, cần nghiên cứu, có hướng xử lý giữa các quy định pháp luật liên quan đến thời hạn lập biên bản vi phạm hành chính, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ và khả thi trong thực tiễn thi hành pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính.

Bên cạnh quy định về thời hạn lập biên bản vi phạm hành chính, pháp luật về xử lý vi phạm hành chính cũng quy định về việc chuyển biên bản vi phạm hành chính: “Trường hợp vi phạm hành chính không thuộc thẩm quyền xử phạt của người lập biên bản thì biên bản và các tài liệu khác phải được chuyển cho người có thẩm quyền xử phạt trong thời hạn 24 giờ kể từ khi lập biên bản, trừ trường hợp biên bản vi phạm hành chính được lập trên tàu bay, tàu biển, tàu hỏa”[6].

Quy định về thời hạn chuyển biên bản vi phạm hành chính và các tài liệu khác cho người có thẩm quyền xử phạt vi phạm như trên là quá ngắn, khó khăn trong tổ chức thực hiện, đặc biệt là đối với những địa phương điều kiện địa hình đi lại khó khăn; hành vi vi phạm phát hiện vào các ngày nghỉ cuối tuần, ngày nghỉ lễ và ở những khu vực xa trung tâm, đi lại khó khăn, một số nơi chưa đáp ứng điều kiện về cơ sở hạ tầng, kỹ thật, thông tin[7].

3. Một số đề xuất, kiến nghị

3.1. Về xây dựng, hoàn thiện pháp luật

Thứ nhất, nghiên cứu bổ sung “tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ” là một trong những nội dung cơ bản, chủ yếu của biên bản vi phạm hành chính được quy định tại Luật Xử lý vi phạm hành chính và Nghị định số 118/2021/NĐ-CP. Trên cơ sở đó, tại MBB01, chỉnh sửa, bổ sung mục về “tình tiết giảm nhẹ”, “tình tiết tăng nặng”.

Thứ hai, nghiên cứu, bổ sung tại Điều 65 Luật Xử lý vi phạm hành chính “vi phạm quy định về thủ tục ban hành quyết định xử phạt” thuộc trường hợp không ra quyết định xử phạt. Trên cơ sở đó, người có thẩm quyền có căn cứ để ra quyết định tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính nếu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính thuộc loại cấm tàng trữ, cấm lưu hành hoặc tang vật, phương tiện mà pháp luật có quy định hình thức xử phạt tịch thu và áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả được quy định đối với hành vi vi phạm hành chính đó.

Thứ ba, nghiên cứu, sửa đổi quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính và Nghị định số 118/2021/NĐ-CP về thời hạn chuyển biên bản vi phạm hành chính và các tài liệu khác cho người có thẩm quyền xử phạt trong thời hạn 24 giờ kể từ khi lập biên bản, phù hợp với thực tiễn thực hiện và bảo đảm tính khả thi trong quá trình tổ chức thực hiện, đặc biệt là tại những nơi điều kiện địa hình đi lại khó khăn; hành vi vi phạm phát hiện vào các ngày nghỉ cuối tuần, ngày nghỉ lễ và ở những khu vực xa trung tâm, đi lại khó khăn, một số nơi chưa đáp ứng điều kiện về cơ sở hạ tầng, kỹ thật, thông tin.

Thứ tư, nghiên cứu, chỉnh sửa hướng dẫn tại chú thích số 15 MBB01 ban hành kèm theo Nghị định số 118/2021/NĐ-CP về việc cá nhân, người đại diện của tổ chức vi phạm gửi văn bản giải trình/văn bản yêu cầu được giải trình trực tiếp đến người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính, bảo đảm phù hợp với quy định tại khoản 4 Điều 17 Nghị định số 118/2021/NĐ-CP theo hướng:

- Trường hợp đã xác định được người có thẩm quyền xử phạt thì ghi chức danh và tên cơ quan của người có thẩm quyền xử phạt.

- Trường hợp chưa xác định được người có thẩm quyền xử phạt thì yêu cầu cá nhân, tổ chức vi phạm gửi văn bản giải trình và ghi chức danh và tên của người lập biên bản vi phạm hành chính đó.

3.2. Về tổ chức thi hành pháp luật

Thứ nhất, tiếp tục tăng cường, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tập huấn, bồi dưỡng về những kỹ năng chuyên sâu về xử phạt vi phạm hành chính, trong đó có kỹ năng chuyên sâu về biên bản vi phạm hành chính, bảo đảm tính chính xác, thống nhất trong hướng dẫn áp dụng pháp luật và trong áp dụng pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền, tránh một quy định pháp luật dẫn đến nhiều cách hiểu và áp dụng pháp luật khác nhau.

Thứ hai, quan tâm, chú trọng công tác kiểm tra và tự kiểm tra các hồ sơ xử phạt vi phạm hành chính nói chung và biên bản vi phạm hành chính nói riêng, bảo đảm việc áp dụng pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính khách quan, công bằng, nghiêm minh, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức.

ThS. Nguyễn Thị Thanh Tâm

Trưởng phòng Phòng Quản lý xử lý vi phạm hành chính và theo dõi thi hành pháp luật, Sở Tư pháp Thành phố Hà Nội

[1]. Xem: Khoản 3 Điều 58 Luật Xử lý vi phạm hành chính.

[2]. Xem: Khoản 4 Điều 12 Nghị định số 118/2021/NĐ-CP.

[3]. Xem: Điểm e khoản 3 Điều 58 Luật Xử lý vi phạm hành chính.

[4]. Xem: Điểm i khoản 4 Điều 12 Nghị định số 118/2021/NĐ-CP.

[5]. Xem: Điểm a khoản 1 Điều 3 Luật Xử lý vi phạm hành chính.

[6]. Xem: Khoản 5 Điều 58 Luật Xử lý vi phạm hành chính; điểm a khoản 6 Điều 12 Nghị định số 118/2021/NĐ-CP.

[7]. Xem: Bộ Tư pháp (2023), Báo cáo số 62/BC-BTP ngày 01/3/2023 của Bộ Tư pháp báo cáo công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính năm 2022, Phụ lục III.

(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 1 (Số 386), tháng 8/2023)

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 11/6/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 120/2025/NĐ-CP quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 120/2025/NĐ-CP). Nghị định bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động bình thường, liên tục, thông suốt của các cơ quan; không để gián đoạn công việc, không để chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực, địa bàn; không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của xã hội, người dân, doanh nghiệp khi thực hiện chính quyền địa phương hai cấp từ ngày 01/7/2025 trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Nhằm thể chế hoá đầy đủ quan điểm chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phân quyền, phân cấp; bảo đảm việc triển khai nhiệm vụ được thông suốt, hiệu quả, kịp thời, cải cách tối đa thủ tục hành chính, giảm chi phí, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, Chính phủ ban hành Nghị định số 121/2025/NĐ-CP quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 121/2025/NĐ-CP).
Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng trong xây dựng Nghị định số 80/2025/NĐ-CP về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật được Chính phủ ban hành ngày 01/4/2025 (Nghị định số 80/2025/NĐ-CP).

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm