Xây dựng Nhà nước pháp quyền đòi hỏi không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và Nhà nước phải quản lý mọi lĩnh vực của đời sống xã hội bằng pháp luật. Vì vậy, việc củng cố và tăng cường công tác pháp chế là vấn đề cần thiết, nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, mở rộng dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, nhất là trong bối cảnh thực hiện chủ trương đổi mới, xây dựng nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Để đáp ứng yêu cầu thực tiễn, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 55/2011/NĐ-CP ngày 04/7/2011 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của tổ chức pháp chế (Nghị định số 55/2011/NĐ-CP).
Sau khi Chính phủ ban hành Nghị định số 55/2011/NĐ-CP, ngày 09/10/2011, Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh Gia Lai đã ban hành Công văn số 3589/UBND-NC chỉ đạo triển khai thực hiện Nghị định số 55/2011/NĐ-CP trên địa bàn tỉnh; chỉ đạo Sở Nội vụ và Sở Tư pháp tham mưu UBND tỉnh kiện toàn tổ chức pháp chế trên địa bàn tỉnh. Đồng thời, chỉ đạo các cơ quan chuyên môn thuộc UBND, các doanh nghiệp nhà nước của tỉnh phổ biến, giới thiệu nội dung Nghị định số 55/NĐ-CP và các văn bản hướng dẫn thi hành với nhiều hình thức như: Đăng tải nội dung phổ biến trên Trang thông tin điện tử của các Sở, ban, ngành; biên soạn và cấp phát tài liệu, tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng kiến thức pháp luật liên quan đến công tác pháp chế…
Qua 4 năm triển khai thực hiện Nghị định số 55/NĐ-CP đến nay trên địa bàn tỉnh có 15 Sở, ngành có bộ phận pháp chế được tổ chức dưới hình thức cử cán bộ kiêm nhiệm, với 35 cán bộ, công chức làm công tác pháp chế (trong đó: 16 người có trình độ chuyên môn cử nhân luật, 19 người có trình độ chuyên môn từ cử nhân trở lên thuộc chuyên ngành khác). Đối với các doanh nghiệp nhà nước đóng trên địa bàn tỉnh, qua khảo sát, hầu hết không có tổ chức pháp chế hoặc không cử cán bộ làm công tác pháp chế, một số ít bố trí cán bộ pháp chế dưới hình thức kiêm nhiệm. Hoạt động của các tổ chức pháp chế ngày càng đi vào nề nếp và phát huy hiệu quả, thể hiện ở nhiều mặt khác nhau:
Thứ nhất, công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) của các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh đã được chú trọng. Việc xây dựng, tham mưu Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh, UBND tỉnh ban hành VBQPPL ngày càng hoàn thiện, đúng trình tự, thủ tục quy định. Trong năm 2015, UBND tỉnh ban hành 37 quyết định. Việc rà soát VBQPPL được thực hiện thường xuyên, qua đó, kịp thời xem xét, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc bãi bỏ cho phù hợp với VBQPPL của cơ quan cấp trên và tình hình thực tế tại địa phương.
Thứ hai, công tác kiểm tra và xử lý VBQPPL được đẩy mạnh, trong đó chủ yếu là tự kiểm tra văn bản. Trong năm 2015, với trách nhiệm là cơ quan tham mưu giúp UBND tỉnh trong việc tự kiểm tra và kiểm tra văn bản theo thẩm quyền, Sở Tư pháp đã thực hiện tự kiểm tra 29 văn bản của UBND tỉnh, kiểm tra theo thẩm quyền 130 văn bản, không phát hiện văn bản nào trái pháp luật.
Thứ ba, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật được thực hiện thường xuyên, chủ yếu thông qua hình thức giới thiệu VBQPPL mới tại các buổi sinh hoạt cơ quan, đơn vị; phổ biến văn bản mới trên các báo, đài, tạp chí; phát hành tài liệu tuyên truyền; công bố văn bản, thủ tục hành chính liên quan đến ngành trên Trang thông tin điện tử; khai thác và sử dụng tủ sách pháp luật; tổ chức các lớp tập huấn nghiệp vụ pháp luật; thông qua các cuộc kiểm tra về phổ biến, giáo dục pháp luật, hòa giải ở cơ sở. Đặc biệt, tiếp tục triển khai sâu rộng mô hình “Ngày Pháp luật” với nhiều nội dung thiết thực, thu hút sự hưởng ứng tham gia của các đối tượng, tiếp tục thực hiện triển khai các hoạt động liên quan đến công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. Ngoài ra, lồng ghép tuyên truyền, phổ biến pháp luật với việc thực hiện công tác chuyên môn, nghiệp vụ.
Thứ tư, công tác theo dõi thi hành pháp luật chuyên ngành được chú trọng thực hiện nghiêm túc, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra các đối tượng thuộc lĩnh vực pháp lý, hoạt động thanh tra, kiểm tra nhằm chấn chỉnh và đảm bảo việc thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật. Giai đoạn từ năm 2013 đến nay, công tác theo dõi thi hành pháp luật và quản lý xử lý vi phạm hành chính được chú trọng thực hiện. Đặc biệt, sau khi Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 có hiệu lực, UBND tỉnh đã chủ động ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành trên địa bàn tỉnh; tổ chức 2 Hội nghị tập huấn chuyên sâu về xử lý vi phạm hành chính với sự tham gia của 2 báo cáo viên của Bộ Tư pháp. Hàng năm, đều ban hành Kế hoạch theo dõi thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.
Thứ năm, đối với công tác bồi thường nhà nước chủ yếu tập trung triển khai, phổ biến các quy định pháp luật mới trong hoạt động quản lý nhà nước về công tác bồi thường nhà nước đến cán bộ, công chức, viên chức trong toàn tỉnh, nhằm thực hiện tốt trách nhiệm của mình trong thi hành công vụ. Thực hiện Thông tư liên tịch số 18/2011/TTLT-BTP-BNV ngày 19/10/2011của Bộ Tư pháp và Bộ Nội vụ hướng dẫn nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức, biên chế của Sở Tư pháp thuộc UBND cấp tỉnh và Phòng Tư pháp thuộc UBND cấp huyện về bồi thường nhà nước. Hiện tại, Sở Tư pháp được bố trí 1 biên chế để thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về công tác bồi thường tại địa phương. Đối với các sở, ban, ngành cho đến nay, vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể để bảo đảm về tổ chức, bộ máy và biên chế thực hiện công tác này, nên việc phân công trách nhiệm và bố trí nhân sự thực hiện công tác này vẫn chủ yếu là kiêm nhiệm. Năm 2015, toàn tỉnh có 2 vụ việc yêu cầu bồi thường nhà nước đó là: Thành phố Pleiku và huyện Krông Pa, 2 vụ việc này hiện nay vẫn đang được giải quyết.
Thứ sáu, công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp thực hiện thông qua sự phối hợp giữa các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh và cơ quan, đơn vị liên quan thông qua các hội nghị, lớp tập huấn kiến thức pháp luật cho doanh nghiệp; giải đáp trực tiếp, thông qua mạng điện tử, điện thoại hoặc bằng văn bản… Sở Tư pháp là cơ quan tham mưu cho UBND cấp tỉnh về công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp tại địa phương và làm đầu mối phối hợp với các cơ quan chuyên môn khác thuộc UBND cấp tỉnh thực hiện các hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, đã thực hiện nhiều hoạt động thiết thực phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của mình, góp phần nâng cao hiệu quả công tác pháp chế. Đặc biệt, trong năm 2015, Sở Tư pháp đã phối hợp với Đài Phát thanh - Truyền hình tỉnh xây dựng chuyên mục “Hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp” phát hành định kỳ 1 số/tháng, tập trung vào các nội dung pháp luật thiết thực đối với doanh nghiệp.
Thứ bảy, công tác kiểm soát thủ tục hành chính của tỉnh có những chuyển biến tích cực. Quyết định số 710/QĐ-UBND ngày 09/12/2014 về việc ban hành Kế hoạch rà soát thủ tục hành chính trọng tâm năm 2015 với tổng số thủ tục hành chính được tiến hành rà soát, đánh giá là 17 thủ tục hành chính, kết quả có 13 thủ tục hành chính được kiến nghị cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung. Giai đoạn 2011-2015, được sự quan tâm chỉ đạo và tổ chức thực hiện của các cấp, ngành trên địa bàn tỉnh, công tác kiểm soát thủ tục hành chính tiếp tục được thực hiện nghiêm túc và có những chuyển biến tích cực, thực hiện nhiều giải pháp để nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác cải cách hành chính, công tác giải quyết thủ tục hành chính cho tổ chức và cá nhân.
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc triển khai thực hiện Nghị định số 55/NĐ-CP vẫn còn nhiều khó khăn, vướng mắc. Một là, xuất phát từ việc không thống nhất trong quy định pháp luật của Trung ương, dẫn đến việc khó thực hiện ở địa phương, cụ thể là tại khoản 1 Điều 19 Nghị định số 55/NĐ-CP có quy định thành lập phòng pháp chế ở 14 cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh hoặc bố trí cán bộ chuyên trách. Tuy nhiên, các VBQPPL quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh không có quy định về việc thành lập phòng pháp chế. Hai là, chậm ban hành các VBQPPL điều chỉnh về công tác pháp chế để theo kịp với yêu cầu của thực tiễn, chưa gắn với xây dựng pháp luật phục vụ nhiệm vụ quản lý nhà nước. Ba là, công tác theo dõi, quản lý, kiểm tra, giám sát về tổ chức và hoạt động của các tổ chức pháp chế chưa được chú trọng. Bốn là, tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ làm công tác pháp chế còn hạn chế về số lượng cũng như chất lượng. Năm là, sự phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức còn mang tính chất để giải quyết vụ việc, chưa có sự chủ động, gắn kết chặt chẽ. Hơn nữa, nguồn lực tài chính dành cho các mặt công tác pháp chế chưa được bảo đảm một cách đầy đủ.
Trong thời gian tới, để nâng cao chất lượng công tác pháp chế nói chung và trên địa bàn tỉnh Gia Lai nói riêng, thiết nghĩ cần đẩy mạnh thực hiện một số giải pháp cơ bản sau:
Thứ nhất, cần nâng cao nhận thức đúng đắn và sự chỉ đạo sâu sát của các cấp lãnh đạo các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND cấp tỉnh. Đây là yếu tố quan trọng hàng đầu để bảo đảm cho công tác pháp chế. Đồng thời, các cấp lãnh đạo, các cơ quan, doanh nghiệp cần có sự quan tâm và đầu tư hơn nữa về nguồn nhân lực, từ cơ chế chính sách, chế độ đến cơ chế thu hút cán bộ làm việc lâu dài, cán bộ có trình độ chuyên môn cao làm công tác pháp chế.
Thứ hai, tăng cường tính chủ động, tích cực và tinh thần trách nhiệm của các tổ chức pháp chế. Thực tế cho thấy, dù còn có những hạn chế về các nguồn lực bảo đảm, từ nhân lực đến vật lực nhưng với sự chủ động và tích cực của mình, các tổ chức pháp chế đã hoàn thành các kế hoạch về công tác pháp chế hàng năm, từ công tác xây dựng pháp luật, rà soát, hệ thống hóa văn bản, kiểm tra và xử lý văn bản… với chất lượng và hiệu quả đáng ghi nhận.
Thứ ba, cần nghiên cứu thành lập các tổ chức pháp chế chuyên trách ở cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh và các doanh nghiệp nhà nước để nâng cao tầm quan trọng và chất lượng công tác pháp chế.
Thứ tư, tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa Sở Tư pháp với các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh và các doanh nghiệp về công tác pháp chế. Thực tiễn cho thấy, mối quan hệ phối hợp chặt chẽ trong công tác pháp chế giữa các cơ quan đã tháo gỡ được nhiều bất cập, tồn tại và khắc phục được nhiều khó khăn trong công tác pháp chế.
Thứ sáu, một số kiến nghị đối với Trung ương, cụ thể là: Đề nghị Chính phủ tiếp tục quan tâm, chỉ đạo công tác pháp chế; đảm bảo nguồn lực và ngân sách cho công tác pháp chế; thực hiện chế độ, chính sách ưu đãi, thu hút đối với đội ngũ những người làm công tác pháp chế tại các bộ, ngành, địa phương. Đề nghị Bộ Nội vụ chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp, các bộ, ngành, địa phương xây dựng phương án rà soát và kiện toàn tổ chức bộ máy và nhân lực làm công tác pháp chế theo Nghị định số 55/NĐ-CP, nhất là việc thành lập phòng pháp chế tại các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, đồng thời phối hợp với Bộ Tư pháp sớm ban hành thông tư liên tịch hướng dẫn thực hiện Nghị định số 55/NĐ-CP, nhất là hướng dẫn cụ thể về tổ chức bộ máy pháp chế. Bên cạnh đó, cần quy định chế độ phụ cấp ưu đãi theo nghề đối với người làm công tác pháp chế nhằm động viên, hỗ trợ tinh thần và nâng cao trách nhiệm của những người làm công tác pháp chế.
Dương Thị Thanh Hiếu
Sở Tư pháp tỉnh Gia Lai