Bài viết dưới đây, tác giả muốn giới thiệu đến bạn đọc hai nội dung chính: (1) Đặc trưng xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp ở Việt Nam và (2) Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật như: Nghiên cứu để xây dựng luật về xã hội hóa dịch vụ công; tiếp tục hoàn thiện các quy định về nội dung, hình thức xã hội hóa dịch vụ công phù hợp với từng lĩnh vực hoạt động tư pháp; rà soát, sửa đổi hoặc quy định cụ thể hơn về trách nhiệm quản lý nhà nước đối với xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp...
Cung cấp dịch vụ công là một trong những nhiệm vụ cơ bản của Nhà nước. Một cách chung nhất, dịch vụ công được hiểu là “những dịch vụ gắn với lợi ích chung, thiết yếu của đa số nhân dân hay dịch vụ công gắn với trách nhiệm của Nhà nước đối với dân chúng”[1] Dịch vụ công gắn với trách nhiệm của Nhà nước và hiện nay xã hội hóa dịch vụ công (XHHDVC) đang trở thành một xu hướng phổ biến của các nhà nước trong một thế giới chuyển đổi nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Yêu cầu xã hội hóa cung ứng dịch vụ công là Nhà nước chỉ trực tiếp thực hiện một số loại dịch vụ công quan trọng và thông qua các cơ chế cụ thể dần chuyển giao việc cung ứng các dịch vụ công còn lại cho các chủ thể khác đồng thời có trách nhiệm kiểm soát chặt chẽ chất lượng của việc cung ứng các loại dịch vụ công này[2].
Ở Việt Nam, XHHDVC được khởi xướng thực hiện trong những năm đầu của thời kỳ đổi mới. Cùng với quá trình cải cách hành chính, đổi mới phương thức tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, thì XHHDVC đã được mở rộng trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong lĩnh vực tư pháp, XHHDVC được nghiên cứu và đẩy mạnh thực hiện cùng với tiến trình cải cách pháp luật, cải cách tư pháp với các nội dung trọng tâm được xác định tại Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2006 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp có những tác động tích cực trong việc cải thiện, nâng cao chất lượng và phát triển ổn định, bền vững các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp, nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người dân. Thực tiễn cho thấy, lĩnh vực tư pháp là lĩnh vực hoạt động có nhiều đặc thù. Đây là lĩnh vực mà theo quan điểm truyền thống là địa hạt của Nhà nước, gắn với việc thực hiện quyền lực nhà nước, tổ chức thực hiện và bảo vệ pháp luật, duy trì công lý trong xã hội. Mặc dù, quá trình XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp còn có những quan điểm khác nhau về phạm vi, phương thức, cách thức, hình thức... xã hội hóa cũng như vai trò, trách nhiệm của Nhà nước nhưng có thể khái quát những đặc trưng cơ bản của XHHDVC như sau:
Thứ nhất, xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp được thực hiện bằng việc huy động, tổ chức sự tham gia rộng rãi, chủ động của các tổ chức, cá nhân vào hoạt động cung ứng dịch vụ công
Việc huy động này được thực hiện dưới hình thức chuyển giao cho khu vực tư cung ứng các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp từng phần hoặc toàn bộ tùy thuộc vào điều kiện và năng lực của các tổ chức, cá nhân[3]. Thông qua việc chuyển giao cung cấp dịch vụ công, Nhà nước đã cho phép hình thành hệ thống các tổ chức cung cấp dịch vụ ngoài công lập như văn phòng luật sư, công ty luật, Văn phòng Thừa phát lại, văn phòng công chứng, công ty bán đấu giá tài sản… Cùng với đó, trong một mức độ và giới hạn ở những phạm vi nhất định, XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp còn bao hàm ý nghĩa động viên sự đóng góp nguồn lực cho hoạt động cung cấp dịch vụ công của Nhà nước, trong đó bao gồm hình thức thu phí, qua đó làm giảm bớt gánh nặng ngân sách nhà nước trong điều kiện ngân sách còn hạn hẹp. Trong trường hợp này, các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp được cung cấp bởi các tổ chức dịch vụ sự nghiệp công lập do Nhà nước thành lập và tổ chức hoạt động như Phòng công chứng, Trung tâm Dịch vụ bán đấu giá tài sản, Trung tâm Trợ giúp pháp lý…
Thứ hai, xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp phụ thuộc vào quan điểm chính trị, pháp lý, điều kiện kinh tế - xã hội, trình độ, nhận thức pháp luật của người dân và của mỗi nước trong từng thời kỳ
Quan điểm chính trị, pháp lý là những quan niệm, quan điểm của mỗi Nhà nước về vai trò của Nhà nước, quyền lực nhà nước và về pháp luật với vai trò là công cụ để Nhà nước quản lý xã hội. Những quan điểm chính trị, pháp lý này sẽ xác định những lĩnh vực cốt lõi mà Nhà nước phải thực hiện và những lĩnh vực mà Nhà nước có thể xã hội hóa và phạm vi, mức độ xã hội hóa. Cùng với đó, XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội của từng vùng miền, từng quốc gia và phụ thuộc vào từng lĩnh vực cụ thể. Điều kiện kinh tế - xã hội phát triển tạo điều kiện cho người dân không chỉ có thể chi trả nhiều hơn cho các dịch vụ mà họ có nhu cầu sử dụng mà còn có khả năng tham gia vào quá trình cung ứng các dịch vụ đó. Do vậy, đối với những nơi có điều kiện kinh tế - xã hội phát triển, nguồn lực phong phú thì Nhà nước có thể thúc đẩy thực hiện xã hội hóa trên cơ sở phát huy vai trò tích cực, chủ động của người dân trong việc tham gia cung ứng dịch vụ công. Nhà nước sẽ có chính sách hỗ trợ nhằm khuyến khích các tổ chức, cá nhân tham gia vào cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp bằng việc hỗ trợ tài chính cho hoạt động, có các chính sách ưu đãi khi các tổ chức, cá nhân tham gia vào việc cung ứng dịch vụ công. Tuy nhiên, tại một số lĩnh vực, địa bàn có điều kiện khó khăn, Nhà nước sẽ phải trực tiếp tổ chức bộ máy và nhân lực cung cấp các dịch vụ công để bảo đảm cho người dân được bình đẳng trong tiếp cận và thụ hưởng dịch vụ công. Đồng thời, quá trình XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp phụ thuộc vào trình độ, nhận thức pháp luật của người dân. Khi trình độ, nhận thức pháp luật của người dân được nâng lên, người dân không chỉ có ý thức tuân thủ pháp luật tốt hơn mà còn có nhu cầu sử dụng pháp luật trong việc bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình và hỗ trợ người khác trong thực hiện pháp luật. Đây chính là môi trường thuận lợi cho việc thực hiện XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp. Tuy nhiên, dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp bao gồm hoạt động có liên quan trực tiếp đến quá trình xét xử, cung cấp chứng cứ, hỗ trợ, tư vấn cho người tham gia tố tụng hay thực hiện pháp luật và phán quyết của Tòa án, qua đó bảo đảm tính đúng đắn trong các phán quyết của Tòa án cũng như củng cố, xây dựng niềm tin của người dân đối với pháp luật, công bằng, công lý trong xã hội. Do đó, quá trình tổ chức huy động, thu hút sự tham gia của các tổ chức, cá nhân ở khu vực ngoài Nhà nước vào việc cung ứng dịch vụ công được tổ chức chặt chẽ hơn. Các chủ thể phi Nhà nước tham gia vào cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp trên cơ sở kết quả của quá trình xã hội hóa, chuyển giao là phụ thuộc vào năng lực, khả năng của các chủ thể này. Nhà nước có nhu cầu chuyển giao cung ứng dịch vụ công nhưng quá trình này chỉ có thể được thực hiện khi các chủ thể đó có khả năng tiếp nhận. Khả năng này được nhìn nhận ở năng lực nói chung trong việc tham gia vào quá trình quản lý xã hội của các chủ thể phi Nhà nước và cũng đồng thời được nhìn nhận ở các điều kiện chuyên môn, kỹ thuật gắn với đạo đức nghề nghiệp mà các chủ thể phải đáp ứng khi tham gia vào việc cung ứng dịch vụ công cụ thể.
Thứ ba, xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp đề cao vai trò của Nhà nước trong việc cung ứng, tổ chức việc cung ứng dịch vụ công và bảo đảm cho người dân có thể bình đẳng trong việc tiếp cận và thụ hưởng các dịch vụ công, qua đó, bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của công dân
XHHDVC hướng đến việc nâng cao chất lượng cung ứng dịch vụ công thông qua việc xây dựng cộng đồng trách nhiệm của Nhà nước và người dân trong việc cung ứng dịch vụ công. Việc chuyển giao những dịch vụ công các tổ chức ngoài khu vực Nhà nước sẽ tạo ra môi trường cạnh tranh giữa các tổ chức cung ứng dịch vụ công và tạo cơ hội cho người tiêu dùng lựa chọn và sử dụng những dịch vụ tốt nhất. Việc xã hội hóa cũng tạo điều kiện cho mọi người tham gia tích cực vào hoạt động này, phát huy được khả năng và năng lực tiềm tàng trong xã hội, khơi dậy chủ động, tích cực của người dân, nhờ đó, đa dạng hóa và tăng nguồn cung cấp các dịch vụ công cho xã hội. Trong lĩnh vực tư pháp, các dịch vụ công gắn với việc bảo vệ, bảo đảm thực hiện quyền và lợi ích chính đáng của công dân, bảo vệ pháp luật, công bằng và công lý trong xã hội. Khi thực hiện xã hội hóa, Nhà nước chuyển giao một phần hoặc toàn bộ việc cung ứng dịch vụ công cho các tổ chức, cá nhân, trong đó có những dịch vụ được các tổ chức, cá nhân thực hiện trên cơ sở ủy quyền của Nhà nước như việc xác nhận tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch; xác minh điều kiện thi hành án, tống đạt giấy tờ, tổ chức thi hành bản án, quyết định dân sự của Tòa án… Bảo đảm chất lượng cung ứng các dịch vụ công trong những trường hợp này không chỉ phục vụ cho nhu cầu của người dân mà còn góp phần quan trọng vào việc củng cố niềm tin, tình cảm, nâng cao ý thức pháp luật của người dân. Mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận, giảm bớt gánh nặng công việc cho Nhà nước không phải là ưu tiên trong XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp. Điều quan trọng là phải tạo ra được lợi ích và trách nhiệm được chia sẻ giữa Nhà nước, người cung cấp dịch vụ công và công dân. Do vậy, hoạt động cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp dù được tiến hành dưới hình thức nào thì Nhà nước vẫn phải là người chịu trách nhiệm trước xã hội về việc bảo đảm cung cấp dịch vụ công và chất lượng của các dịch vụ công được cung cấp thông qua việc thiết kế, vận hành hiệu quả cơ chế kiểm tra, đánh giá, giám sát việc cung cấp các dịch vụ công của các tổ chức, cá nhân.
Thứ tư, đề cao vai trò của các tổ chức nghề nghiệp trong quản lý và bảo đảm chất lượng cung ứng các dịch vụ công trong quá trình xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp
Trong lĩnh vực tư pháp, hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung và việc cung cấp các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp nói riêng phải bảo đảm tuân thủ theo những nguyên tắc cơ bản trong thực hiện quyền tư pháp, đặc biệt là nguyên tắc thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật[4]. Các tổ chức, cá nhân khi tham gia vào việc cung cấp các dịch vụ công cũng phải bảo đảm tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật, đề cao trách nhiệm cá nhân và đạo đức nghề nghiệp để bảo đảm quyền tư pháp được thực thi đúng đắn.
Các tổ chức xã hội - nghề nghiệp trong lĩnh vực tư pháp là các tổ chức được thành lập trên cơ sở tập hợp những tổ chức, cá nhân có cùng mục đích, hành nghề trong cùng lĩnh vực. Các tổ chức này hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, tự quản, tự bảo đảm kinh phí, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng cũng như hỗ trợ cho các thành viên trong hành nghề. Thông qua những nguyên tắc, mục tiêu hoạt động của mình, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp có vai trò quan trọng trong việc nâng cao năng lực hành nghề và thực hiện chức năng tự quản, quản lý việc chấp hành pháp luật, tuân thủ đạo đức nghề nghiệp của các tổ chức, cá nhân trong cung ứng các dịch vụ công. Ví dụ như Luật Luật sư quy định trách nhiệm của Liên đoàn Luật sư Việt Nam trong việc ban hành và bảo đảm thực hiện Quy tắc đạo đức nghề nghiệp của luật sư, kiểm tra tập sự hành nghề luật sư. Với đặc thù của các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp trong lĩnh vực tư pháp, việc phát huy vai trò của các tổ chức xã hội nghề nghiệp góp phần quan trọng vào việc duy trì và thúc đẩy các giá trị tích cực, tốt đẹp của các thành viên trong hành nghề. Do đó, Nhà nước cũng giao cho các tổ chức xã hội - nghề nghiệp trong việc quản lý nhà nước đối với việc cung ứng dịch vụ công trên nguyên tắc kết hợp giữa quản lý nhà nước với tự quản của tổ chức hành nghề, bảo đảm tuân thủ pháp luật, quy tắc đạo đức nghề nghiệp của các tổ chức, cá nhân.
2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật
Pháp luật là nền tảng của Nhà nước pháp quyền và pháp luật trong Nhà nước pháp quyền phải bảo đảm quyền tự do, dân chủ và công lý. Yêu cầu cơ bản của xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay là hoàn thiện hệ thống pháp luật[5]. Trong quá trình XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp, pháp luật tạo hành lang pháp lý cho sự tham gia cung cấp dịch vụ công của các chủ thể trong xã hội và bảo đảm sự tham gia một cách bình đẳng giữa các chủ thể Nhà nước và phi Nhà nước. Yêu cầu đặt ra là pháp luật phải bảo đảm tính ổn định, khả thi, hướng đến mục tiêu nâng cao chất lượng dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp và bảo đảm người dân ngày càng dễ dàng hơn trong việc tiếp cận và thụ hưởng dịch vụ công cũng như góp phần đắc lực phục vụ cho quá trình cải cách tư pháp, bảo vệ pháp luật. Pháp luật không phải chỉ thể hiện cam kết của Nhà nước trước xã hội về việc bảo đảm quyền và lợi ích của các tổ chức và cá nhân khi tham gia cung cấp dịch vụ công, mà còn là thể hiện cam kết của Nhà nước trước nhân dân về việc cung cấp dịch vụ công có chất lượng gắn với nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, duy trì công bằng, lẽ phải trong xã hội dù trong bối cảnh Nhà nước không tham gia trực tiếp vào việc cung cấp dịch vụ công. Do vậy, việc hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp cần quan tâm đến một số nội dung sau:
Một là, nghiên cứu để xây dựng luật về xã hội hóa dịch vụ công
Thực tiễn cho thấy, các quy định về XHHDVC nằm trong các văn bản quy phạm pháp luật khác nhau, ở các lĩnh vực và cấp độ văn bản khác nhau. Do đó, việc pháp điển hóa các quy định pháp luật thành một văn bản chung, thống nhất quy định về XHHDVC là một giải pháp khá khó khăn, đòi hỏi phải có bước đi và hình thức phù hợp. Tuy nhiên, trong bối cảnh đẩy mạnh hoàn thiện thể chế nền kinh tế thị trường, đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước thì quá trình XHHDVC đang được triển khai hết sức mạnh mẽ, quyết liệt với nỗ lực của Chính phủ trong việc xây dựng và ban hành hàng loạt các văn bản, chính sách để thực hiện XHHDVC trong các lĩnh vực nói chung, trong đó có dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp. Vì vậy, việc nghiên cứu, đề xuất ban hành luật về xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp là hết sức cần thiết và sẽ là động lực cho việc thúc đẩy xã hội hóa và nâng cao chất lượng dịch vụ công trong giai đoạn tiếp theo. Luật về xã hội hóa dịch vụ công cần bao gồm các quy định có tính nguyên tắc trong XHHDVC, nội dung, phương thức pháp lý cho việc thực hiện XHHDVC, các chính sách, biện pháp khuyến khích, ưu đãi thực hiện XHHDVC. Các quy định này sẽ là cơ sở, định hướng cho việc thực hiện XHHDVC trong từng lĩnh vực cụ thể. Các văn bản pháp luật chuyên ngành cùng với nội dung văn bản quy định những vấn đề chung về XHHDVC sẽ tạo ra hành lang pháp lý để tổ chức hiệu quả việc cung ứng dịch vụ công.
Hai là, tiếp tục hoàn thiện các quy định về nội dung, hình thức xã hội hóa dịch vụ công phù hợp với từng lĩnh vực hoạt động tư pháp
Rà soát các văn bản pháp luật trong lĩnh vực tư pháp cho thấy, các quy định về XHHDVC đã từng bước mở rộng đối tượng, chủ thể được tham gia vào việc cung cấp dịch vụ công. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, vẫn còn những quy định trong một số lĩnh vực chưa thực sự thu hút được sự tham gia này hoặc có những quy định theo hướng chuyển giao hẳn việc cung cấp dịch vụ công cho xã hội, nên dẫn đến những hạn chế trong hoạt động và tiếp cận với dịch vụ công của người dân. Do vậy, nhiều quy định vẫn cần tiếp tục được hoàn thiện như ban hành nghị định và tiến tới là luật về Thừa phát lại, tăng cường sự tham gia của luật sư trong công tác trợ giúp pháp lý, cho phép hình thành các tổ chức giám định ngoài công lập để thực hiện đối với những lĩnh vực giám định mà xã hội có nhu cầu và năng lực để đảm nhận… Bên cạnh đó, cũng cần nghiên cứu, hoàn thiện các quy định về hợp đồng như một hình thức cam kết về trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân trong tham gia cung cấp dịch vụ công theo đúng quy định và có chất lượng trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý, giám định tư pháp (theo vụ việc), bán đấu giá tài sản (đối với các công ty kinh doanh nhiều ngành nghề, trong đó có bán đấu giá tài sản)…
Ba là, rà soát, sửa đổi hoặc quy định cụ thể hơn về trách nhiệm quản lý nhà nước đối với xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp, đặc biệt là trách nhiệm trong việc quy hoạch và phát triển các tổ chức hành nghề cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp; nội dung, cách thức thanh tra, kiểm tra việc thực hiện dịch vụ công phù hợp với đặc thù hoạt động tư pháp; có quy định riêng về tổ chức dịch vụ sự nghiệp công trong lĩnh vực tư pháp bên cạnh Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập. Điều đáng lưu ý là, rà soát quy định về trách nhiệm của các Bộ, ngành, địa phương trong quản lý dịch vụ công cho thấy Nghị định số 123/2016/NĐ-CP ngày 01/9/2016 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ, cơ quan ngang Bộ về quản lý nhà nước đối với dịch vụ công thuộc ngành, lĩnh vực trong phạm vi toàn quốc. Tuy nhiên, Điều 10 của Nghị định này chỉ quy định về nội dung quản lý nhà nước về dịch vụ sự nghiệp công. Do đó, cần thiết phải sửa đổi Nghị định số 123/2016/NĐ-CP để bổ sung quy định về quản lý dịch vụ công nói chung của các Bộ, ngành làm cơ sở cho việc xây dựng và ban hành nghị định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng Bộ trong bối cảnh đang triển khai chung việc sửa đổi, bổ sung quy định nhiệm vụ, quyền hạn của các Bộ, ngành theo nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIV.
Vụ Hợp tác quốc tế, Bộ Tư pháp
[1]. Bộ Nội vụ, Tài liệu bồi dưỡng ngạch chuyên viên chính - ban hành kèm theo Quyết định số 2367/QĐ-BNV ngày 31/12/2013.
[2]. Nguyễn Văn Quang (2010), Hoàn thiện pháp luật về xã hội hóa cung ứng dịch vụ công ở Việt Nam, Đề tài khoa học cấp trường, Trường Đại học Luật Hà Nội, LH-08-06-ĐHLHN, 2010.
[3]. Trần Thu Hường (2013), Pháp luật XHHDVC trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Bộ Tư pháp - Thực trạng và giải pháp hoàn thiện, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số tháng 8 (25) năm 2013.
[4]. Bộ Tư pháp (2013), Cải cách tư pháp - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Chuyên đề phục vụ nghiên cứu tổng kết 30 năm đổi mới của Hội đồng Lý luận Trung ương, Hà Nội.
[5]. PGS.TS. Hà Hùng Cường (2009), Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, https://thongtinphapluatdansu.com/2009/02/26/2393/.