Để Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp đi vào cuộc sống, trong bài viết này, tác giả đưa ra một số nhiệm vụ trọng tâm mà các bộ, ngành và địa phương, các cá nhân, cơ quan, tổ chức tham gia vào hoạt động giám định tư pháp cần thực hiện tốt, đó là: Luật có nhiều nội dung mới nên để triển khai có hiệu quả trước tiên phải hiểu đúng, đầy đủ các quy định của Luật, do vậy, cần quan tâm đến công tác tuyên truyền, phổ biến nội dung của Luật với hình thức phù hợp cho từng đối tượng; rà soát, hệ thống hóa các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến tổ chức và hoạt động giám định tư pháp; xây dựng các văn bản quy định chi tiết thi hành Luật; củng cố, phát triển đội ngũ người, tổ chức giám định tư pháp; tăng cường năng lực, phát huy vai trò của các tổ chức giám định tư pháp chuyên trách; nâng cao trách nhiệm của cơ quan trưng cầu và cơ quan, tổ chức thực hiện giám định tư pháp, trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước đối với công tác giám định tư pháp.
Ngày 10/6/2020, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp (sau đây gọi là Luật) đã được Quốc hội khóa XIV thông qua tại Kỳ họp thứ 9 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2021. Với quan điểm chỉ đạo là tiếp tục thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng về nâng cao chất lượng hoạt động giám định tư pháp, bảo đảm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của hoạt động tố tụng, tập trung sửa đổi, bổ sung nhanh chóng, kịp thời những vấn đề mang tính cấp bách, cần thiết nhất để tháo gỡ vướng mắc, bất cập về thể chế, khắc phục ngay những tồn tại, khó khăn trong công tác giám định tư pháp phục vụ giải quyết án tham nhũng, kinh tế, Luật được ban hành với nhiều quy định mới như: Mở rộng phạm vi giám định tư pháp, bổ sung quy định việc cấp, thu hồi thẻ giám định viên tư pháp, thành lập tổ chức giám định tư pháp trong lĩnh vực kỹ thuật hình sự thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao, quy định cụ thể hơn về quyền và nghĩa vụ của người trưng cầu/yêu cầu và cá nhân, tổ chức được trưng cầu, yêu cầu giám định, quy định thời hạn giám định, bổ sung một số nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan quản lý nhà nước đối với hoạt động giám định tư pháp.
Có thể thấy rằng, mặc dù giám định tư pháp là một phần của hoạt động tố tụng nhưng các quy định của Luật không “chồng lấn” quy định của pháp luật về tố tụng mà góp phần làm cho các quy định về hoạt động giám định tư pháp trong tố tụng hình sự, dân sự, hành chính được hoàn thiện, cụ thể hơn, qua đó góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động giám định tư pháp nói chung, hoạt động giám định tư pháp phục vụ giải quyết án kinh tế, tham nhũng nói riêng. Do vậy, các quy định của Luật nếu triển khai đúng, kịp thời, đầy đủ sẽ đem lại những hiệu quả tích cực như: (i) Bảo đảm hoạt động giám định tư pháp đáp ứng kịp thời, có chất lượng yêu cầu của hoạt động điều tra, truy tố và xét xử, đặc biệt là công tác giám định tư pháp phục vụ giải quyết án tham nhũng, kinh tế trong giai đoạn hiện nay; (ii) Cơ quan trưng cầu giám định có căn cứ cụ thể rõ ràng để lựa chọn trưng cầu đúng tổ chức giám định, đầy đủ nội dung cần giám định cũng như các căn cứ để đánh giá, sử dụng kết luận giám định làm cơ sở giải quyết vụ án được chính xác, khách quan, tăng cường niềm tin của nhân dân, của xã hội đối với hoạt động tố tụng; (iii) Các tổ chức giám định tư pháp thuận lợi trong việc tiếp nhận, thực hiện giám định đầy đủ nội dung, kịp thời theo trưng cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, khắc phục tình trạng đùn đẩy, né tránh trong tiếp nhận trưng cầu giám định và chậm trễ trong thực hiện giám định; chất lượng kết luận giám định đảm bảo chính xác, khách quan; (iv) Tăng cường trách nhiệm của cơ quan trưng cầu và cá nhân, cơ quan, tổ chức thực hiện giám định; nâng cao vai trò của cơ quan quản lý nhà nước đối với hoạt động giám định tư pháp, từ đó, góp phần nâng cao chất lượng của hoạt động giám định tư pháp.
Từ thực tiễn công tác giám định tư pháp thời gian qua cho thấy, để Luật đi vào cuộc sống, trong thời gian tới, các bộ, ngành và địa phương, các cá nhân, cơ quan, tổ chức tham gia vào hoạt động giám định tư pháp cần thực hiện tốt một số nhiệm vụ sau đây:
1. Tổ chức tuyên truyền, phổ biến nội dung của Luật
Luật có nhiều nội dung mới nên để triển khai có hiệu quả trước tiên phải hiểu đúng, đầy đủ các quy định của Luật, do vậy, cần quan tâm đến công tác tuyên truyền, phổ biến nội dung của Luật với hình thức phù hợp cho từng đối tượng như: Tổ chức tập huấn, biên soạn, phát hành các tài liệu phổ biến, giới thiệu Luật; phối hợp với các cơ quan báo chí tổ chức thực hiện các chuyên mục, chương trình, tin, bài phổ biến Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành. Đối tượng cần được quan tâm tập huấn chuyên sâu nội dung của Luật là người tiến hành tố tụng (điều tra viên, thẩm phán, kiểm sát viên), người giám định tư pháp (giám định viên tư pháp và người giám định tư pháp theo vụ việc), người làm công tác quản lý nhà nước về giám định tư pháp ở bộ, ngành và địa phương.
2. Rà soát, hệ thống hóa các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến tổ chức và hoạt động giám định tư pháp
Giám định tư pháp bao gồm nhiều lĩnh vực chuyên môn khác nhau. Theo báo cáo của Bộ Tư pháp[1] thì tính đến ngày 31/01/2019, các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật Giám định tư pháp năm 2012 lên tới 40 văn bản (của Chính phủ và các bộ, ngành ban hành, hướng dẫn cụ thể về: Tiêu chuẩn, trình tự, thủ tục bổ nhiệm giám định viên; lập danh sách tổ chức, người giám định tư pháp theo vụ việc; phí/chi phí giám định tư pháp và chế độ, chính sách đối với người làm giám định tư pháp, quy trình, quy chuẩn giám định... tạo điều kiện cho tổ chức, hoạt động và quản lý nhà nước về giám định tư pháp ở nhiều lĩnh vực).
Tuy nhiên, các văn bản nêu trên được hướng dẫn căn cứ vào Luật Giám định tư pháp năm 2012, hiện nay, Luật Giám định tư pháp năm 2012 đã được sửa đổi, bổ sung có nhiều nội dung mới nên các bộ, ngành và địa phương cần phải rà soát để sửa đổi, bổ sung khi cần thiết, bảo đảm phù hợp với Luật, tạo thuận lợi cho việc triển khai Luật đồng bộ, thống nhất.
3. Xây dựng các văn bản quy định chi tiết thi hành Luật
Mặc dù đã có nhiều văn bản hướng dẫn thực hiện Luật Giám định tư pháp năm 2012 được ban hành nhưng vẫn chưa đầy đủ, chất lượng một số văn bản hướng dẫn thực hiện cũng còn hạn chế như chưa rõ ràng, cụ thể nên khó thực hiện. Đặc biệt, còn có những văn bản chưa được một số bộ, ngành ban hành như: Quy trình giám định chuẩn ở một số lĩnh vực; hướng dẫn về định mức chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật, định mức chi phí giám định ở tất cả các lĩnh vực thuộc quản lý của các bộ, ngành theo quy định của Pháp lệnh số 02/2012/UBTVQH13 ngày 28/3/2012 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về chi phí giám định, định giá; chi phí cho người làm chứng, người phiên dịch trong tố tụng (Pháp lệnh số 02/2012/UBTVQH13) hướng dẫn của các cơ quan tiến hành tố tụng cấp Trung ương về căn cứ, cách thức đánh giá, sử dụng kết luận giám định trong các vụ án, quy định cụ thể chỉ tiêu thống kê về giám định tư pháp trong hoạt động điều tra, truy tố và xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hành chính... Bên cạnh đó, Luật giao nhiệm vụ cho các bộ, ngành hướng dẫn một số nội dung như thời hạn giám định cụ thể đối với từng loại việc giám định, trình tự, thủ tục cấp thẻ giám định viên tư pháp... Một số nội dung của văn bản hướng dẫn không còn phù hợp với quy định của Luật mới. Vì vậy, trên cơ sở rà soát hệ thống các văn bản về giám định tư pháp, Chính phủ, các bộ, ngành cần quy định mới, sửa đổi, bổ sung các văn hướng dẫn thuộc thẩm quyền của mình, trước mắt tập trung ưu tiên các văn bản, nội dung sau đây:
Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung Nghị định số 85/2013/NĐ-CP ngày 29/7/2013 của Chính phủ quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật Giám định tư pháp năm 2012 do một số quy định của Nghị định này không còn phù hợp với Luật sẽ gây vướng mắc trong quá trình thực hiện như: Việc công nhận cá nhân, tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc, nhiệm vụ quyền hạn của cơ quan quản lý nhà nước về giám định tư pháp, thủ tục hành chính về giám định tư pháp.
Thứ hai, Bộ Tư pháp khẩn trương ban hành Thông tư quy định về mẫu thẻ, trình tự thủ tục cấp mới, cấp lại thẻ giám định viên tư pháp để bảo đảm Thông tư có hiệu lực cùng thời điểm với hiệu lực của Luật vào ngày 01/01/2021. Nội dung của Thông tư cần được quy định theo hướng: Việc cấp, thu hồi thẻ giám định viên tư pháp phải được thực hiện liên thông với việc bổ nhiệm, miễn nhiệm giám định viên tư pháp để đơn giản hóa thủ tục hành chính.
Thứ ba, một trong những điểm mới quan trọng của Luật là bổ sung quy định về thời hạn giám định tư pháp. Do giám định tư pháp có ở nhiều lĩnh vực giám định khác nhau nên thời hạn giám định tư pháp trong Luật được quy định mang tính nguyên tắc, phù hợp với thời hạn điều tra, truy tố và xét xử, đồng thời, Luật giao bộ, cơ quan ngang bộ quản lý chuyên môn về lĩnh vực giám định tư pháp căn cứ vào thời hạn giám định tối đa và tính chất chuyên môn của lĩnh vực giám định quy định thời hạn giám định tư pháp cho từng loại việc cụ thể. Do vậy, để khắc phục tình trạng chậm trễ trong việc thực hiện giám định, gây ảnh hưởng đến tiến độ xử lý các vụ án, các bộ, cơ quan ngang bộ cần sớm ban hành văn bản quy định cụ thể thời hạn giám định đối với từng loại việc giám định thuộc lĩnh vực quản lý của mình. Ngoài ra, đối với các lĩnh vực chưa có quy trình, quy chuẩn chuyên môn cũng cần phải được xây dựng và ban hành đầy đủ theo yêu cầu và đặc thù của từng lĩnh vực giám định.
Thứ tư, các bộ, cơ quan ngang bộ cần hướng dẫn về định mức chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật, định mức chi phí giám định ở tất cả các lĩnh vực giám định. Bộ Tài chính cần hướng dẫn việc thu, quản lý và sử dụng chi phí giám định tư pháp của các tổ chức giám định tư pháp công lập, của cơ quan, tổ chức được nhà nước bảo đảm kinh phí hoạt động và của cá nhân hưởng lương từ ngân sách nhà nước, do Pháp lệnh số 02/2012/UBTVQH13 và Nghị định số 81/2014/NĐ-CP ngày 14/8/2014 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Pháp lệnh số 02/2012/UBTVQH13 chưa có nội dung quy định về việc thu, quản lý và sử dụng chi phí giám định nên rất khó khăn trong quá trình thực hiện.
Thứ năm, Bộ Công an chủ trì, phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Quốc phòng và cơ quan có liên quan xây dựng và ban hành văn bản hướng dẫn về căn cứ, cách thức, trình tự, thủ tục trưng cầu giám định tư pháp và căn cứ, cách thức xem xét, đánh giá, sử dụng kết luận giám định trong hoạt động tố tụng hình sự.
Thứ sáu, Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao cần ban hành chỉ tiêu thống kê, thực hiện thống kê hằng năm về trưng cầu, yêu cầu giám định tư pháp, đánh giá việc thực hiện giám định tư pháp và sử dụng kết luận giám định tư pháp, nhu cầu giám định trong hệ thống cơ quan điều tra thuộc thẩm quyền quản lý làm căn cứ, định hướng cho việc phát triển đội ngũ giám định viên tư pháp, tổ chức giám định tư pháp.
4. Củng cố, phát triển đội ngũ người, tổ chức giám định tư pháp
Tổng số giám định viên tư pháp trong toàn quốc ở các lĩnh vực là 6.154 người; số người giám định tư pháp theo vụ việc được lựa chọn, công bố là 1.630 người trong các lĩnh vực xây dựng, tài chính, ngân hàng, tài nguyên môi trường, giao thông vận tải[2]... Tuy nhiên, thực tế thời gian qua cho thấy, việc bổ nhiệm, miễn nhiệm giám định tư pháp; lập và đăng tải danh sách người giám định tư pháp chưa thực sự bảo đảm chất lượng, chưa sát vào nhu cầu của hoạt động tố tụng. Phần lớn đội ngũ người làm giám định tư pháp tại một số lĩnh vực ngoài các lĩnh vực có tổ chức giám định tư pháp chuyên trách chưa được các bộ, ngành chủ quản đào tạo nghiệp vụ chuyên sâu về giám định chuyên ngành, chủ yếu dựa vào kiến thức chuyên môn thuần túy để vận dụng vào thực hiện giám định, nên còn lúng lúng, khó khăn khi thực hiện giám định.
Để bảo đảm chất lượng đội ngũ người giám định tư pháp phục vụ tốt nhu cầu của hoạt động tố tụng, khi thực hiện bổ nhiệm giám định viên tư pháp, công nhận người giám định tư pháp theo vụ việc cần căn cứ vào tiêu chuẩn quy định của Luật và nhu cầu giám định của hoạt động tố tụng, lĩnh vực, chuyên ngành nào có nhu cầu thì ưu tiên lựa chọn để bổ nhiệm, công nhận. Muốn vậy, trước hết các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cần rà soát lại toàn bộ đội ngũ giám định viên tư pháp, người giám định tư pháp theo vụ việc hiện có, phối hợp với cơ quan tiến hành tố tụng trong việc bổ nhiệm giám định viên tư pháp, công nhận người giám định tư pháp theo vụ việc. Bên cạnh đó, cần tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, kiến thức pháp luật cho đội ngũ người giám định tư pháp để nâng cao chất lượng đội ngũ này.
5. Tăng cường năng lực, phát huy vai trò của các tổ chức giám định tư pháp chuyên trách
Luật quy định: “Phòng giám định kỹ thuật hình sự thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao” (khoản 8 Điều 12) trong hệ thống tổ chức giám định kỹ thuật hình sự. Trong bối cảnh công nghệ thông tin phát triển nhanh, để tổ chức này đi vào hoạt động hiệu quả góp phần đáp ứng kịp thời nhu cầu giám định về âm thanh, hình ảnh từ các dữ liệu điện tử thu thập được trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử, Viện kiểm sát nhân dân tối cao cần quan tâm đầu tư trang thiết bị, cơ sở vật chất, con người và các điều kiện cần thiết khác cho tổ chức giám định mới này.
Thực tế thời gian qua cho thấy, tổ chức pháp y ở địa phương có ở cả ngành y tế, công an, gồm Trung tâm pháp y và giám định viên pháp y làm giám định pháp y tử thi ở Phòng Kỹ thuật hình sự Công an cấp tỉnh. Tuy nhiên, ở nhiều địa phương có sự mất cân đối trong việc tiếp nhận trưng cầu, thực hiện giám định pháp y giữa hai lực lượng pháp y y tế và công an. Một số Trung tâm pháp y được đầu tư về cơ sở vật chất nhưng không được trưng cầu giám định, chưa phát huy được năng lực hiện có của Trung tâm. Chính vì vậy, việc ban hành quy chế phối hợp liên ngành về tiếp nhận trưng cầu và thực hiện giám định pháp y là cần thiết nhằm bảo đảm phát huy tối đa nguồn lực nhân lực pháp y hiện có ở địa phương để đáp ứng tốt yêu cầu của hoạt động tố tụng, bảo đảm và phát huy nguồn nhân lực về pháp y trong điều kiện còn mỏng. Do vậy, Bộ Y tế tiếp tục chủ trì, phối hợp với Bộ Công an, Bộ Tư pháp nghiên cứu, xây dựng dự thảo văn bản quy định cơ chế phối hợp giữa hai lực lượng pháp y ở địa phương để trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
6. Về trách nhiệm của cơ quan trưng cầu và cơ quan, tổ chức thực hiện giám định tư pháp
Về phía cơ quan trưng cầu giám định, thời gian qua cho thấy, cơ quan điều tra mới chỉ tập trung trưng cầu tổ chức công lập mà chưa trưng cầu các tổ chức chuyên môn có năng lực ở ngoài khu vực nhà nước nên chưa bảo đảm sự cân đối trong trưng cầu giám định. Do đó, thời gian tới, cơ quan điều tra cần “mạnh dạn” lựa chọn, trưng cầu các tổ chức, cá nhân ngoài khu vực nhà nước có đủ điều kiện để thực hiện giám định nhằm giảm tải công việc cho cán bộ, công chức và cơ quan nhà nước, đáp ứng được thời hạn giám định.
Đối với các vụ việc cần trưng cầu giám định mà có nội dung chuyên môn liên quan đến nhiều cơ quan, tổ chức, các cơ quan tiến hành tố tụng khá lúng túng khi trưng cầu giám định, thậm chí còn xác định “địa chỉ” trưng cầu giám định chưa phù hợp, làm kéo dài thời gian giải quyết vụ án. Để giải quyết vấn đề này, cơ quan tiến hành tố tụng cần nâng cao trách nhiệm, nghiên cứu từng nội dung yêu cầu giám định, xác định chính xác cá nhân, cơ quan, tổ chức thực hiện giám định phù hợp để ra quyết định trưng cầu giám định. Mặt khác, các cơ quan tiến hành tố tụng cần phối hợp chặt chẽ hơn để có sự thống nhất về nhận thức, quan điểm giữa các cơ quan tiến hành tố tụng về việc cần hay không cần trưng cầu giám định hoặc đánh giá, sử dụng kết luận, phải trưng cầu giám định nhiều lần, kéo dài thời gian giải quyết vụ án.
Về phía tổ chức được trưng cầu giám định, cần bảo đảm thời gian thực hiện giám định theo đúng quy định và yêu cầu của người trưng cầu giám định. Người giám định tư pháp cần nâng cao trách nhiệm khi giám định và đưa ra kết luận giám định tư pháp, tránh đưa ra kết luận giám định trong một số trường hợp chưa thực sự bảo đảm, còn chung chung, không rõ ràng những nội dung được yêu cầu, gây khó khăn cho việc đánh giá, sử dụng kết luận giám định của các cơ quan tiến hành tố tụng.
7. Về trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước đối với công tác giám định tư pháp
Thời gian qua, một số lĩnh vực có nhu cầu giám định ngày càng lớn như tài chính, ngân hàng... nhưng chưa có tổ chức giám định đầu mối chuyên trách dẫn đến việc trưng cầu gặp khó khăn, nhất là đối với những vụ án tham nhũng, kinh tế. Để khắc phục tình trạng này, Luật đã quy định: Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phân công đơn vị đầu mối ở từng bộ, ngành quản lý lĩnh vực giám định để tiếp nhận, phân công và giám sát hoạt động giám định. Do vậy, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cần khẩn trương thực hiện nhiệm vụ này để tạo điều kiện thuận lợi cho việc trưng cầu, tổ chức thực hiện giám định, cũng như công tác quản lý nhà nước về giám định tư pháp ở bộ, ngành và địa phương mình.
Đối với một số trường hợp vụ việc giám định cụ thể có nội dung yêu cầu giám định là nghiệp vụ chuyên môn mới phát sinh, rất phức tạp, khối lượng công việc lớn, vượt quá khả năng của một nhóm hoặc của một tổ chức làm giám định, cần có sự phối hợp của nhiều cơ quan, ban, ngành nhất là các bộ, cơ quan ngang bộ cần có sự phối hợp tích cực, chỉ đạo các cơ quan, đơn vị có liên quan để kịp thời tiếp nhận trưng cầu và tổ chức thực hiện giám định.
Các bộ, ngành chủ quản, địa phương cần chủ động, quan tâm chăm lo đến tổ chức, hoạt động giám định tư pháp ở lĩnh vực thuộc thẩm quyền quản lý; các cơ quan tiến hành tố tụng cấp Trung ương quan tâm chỉ đạo thực hiện thống kê, dự báo nhu cầu giám định và đánh giá chất lượng hoạt động giám định trong hoạt động điều tra, truy tố và xét xử để cung cấp cho các cơ quan quản lý, việc phối hợp với các bộ, ngành quản lý về giám định tư pháp cũng còn chừng mực.
Ngoài ra, cần tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra tình hình tổ chức, hoạt động và quản lý giám định tư pháp và thực hiện nhiệm vụ về giám định tư pháp của các cơ quan, tổ chức có liên quan để phát hiện thiếu sót, kịp thời chấn chỉnh, chỉ đạo để bảo đảm các quy định của Luật được thực thi đúng, thống nhất, đồng bộ trên thực tế.
Cục Bổ trợ Tư pháp
[1]. Báo cáo số 32/BC-BTP ngày 31/01/2019 của Bộ Tư pháp tổng kết thi hành Luật Giám định tư pháp năm 2012.
[2]. Báo cáo số 32/BC-BTP ngày 31/01/2019 của Bộ Tư pháp tổng kết thi hành Luật Giám định tư pháp năm 2012.