Trợ giúp pháp lý (TGPL) là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được TGPL trong vụ việc TGPL để bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong tiếp cận công lý và bình đẳng trước pháp luật. TGPL trong hoạt động tố tụng nói chung và trong hoạt động tố tụng dân sự nói riêng là một trong những nguyên tắc cơ bản đã được ghi nhận trong các bộ luật, luật tố tụng và được Nhà nước bảo đảm; là minh chứng thể hiện chính sách nhân văn sâu sắc của Đảng và Nhà nước ta trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người dân mà cụ thể là người có công với cách mạng; người thuộc hộ nghèo; trẻ em; người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; người bị buộc tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi và một số nhóm người có khó khăn về tài chính theo quy định của pháp luật TGPL.
1. Trách nhiệm của Tòa án liên quan đến trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng dân sự
Nhằm thể chế hóa quan điểm cải cách tư pháp của Đảng về nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên toà xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp[1], đồng thời cụ thể hóa “nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” đã được Hiến pháp năm 2013 ghi nhận[2], Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã quy định nguyên tắc “bảo đảm tranh tụng trong xét xử”. Theo đó, Tòa án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện quyền tranh tụng trong xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Đặc biệt, nhằm đảm bảo quyền tranh tụng của người có công với cách mạng, người yếu thế, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã bổ sung trách nhiệm của Nhà nước, của thẩm phán trong việc bảo đảm quyền TGPL của người thuộc diện được TGPL (Điều 9, Điều 48, Điều 75). Khoản 3 Điều 9 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định nguyên tắc: “Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm trợ giúp pháp lý cho các đối tượng theo quy định của pháp luật để họ thực hiện quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trước Tòa án”. Như vậy, việc bảo đảm quyền được TGPL khi xét xử tại Tòa án đã được Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 ghi nhận như một nguyên tắc cơ bản, được Nhà nước bảo đảm thực hiện.
1.1. Trách nhiệm tuyên truyền giải thích, hướng dẫn cho đương sự biết về quyền được yêu cầu trợ giúp pháp lý trong tố tụng dân sự
Cụ thể hóa nguyên tắc tranh tụng, nhất là đối với người thuộc diện được TGPL, bảo đảm họ biết quyền được yêu cầu TGPL để thực hiện quyền của mình, khoản 6 Điều 48 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và điểm c khoản 1 Điều 7 Thông tư liên tịch số 10/2018/TTLT-BTP-BCA-BQP-BTC-TANDTC-VKSNDTC ngày 29/6/2018 của Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao quy định về phối hợp thực hiện trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng (Thông tư liên tịch số 10) đã quy định: Thẩm phán có trách nhiệm giải thích, hướng dẫn cho đương sự biết để họ thực hiện quyền được yêu cầu TGPL theo quy định của pháp luật về TGPL.
Trong thời gian qua, Tòa án nhân dân các cấp đã thực hiện nhiều phương thức tuyên truyền về TGPL cho người dân nói chung, đương sự trong các vụ án dân sự nói riêng, để họ dễ dàng tiếp cận quyền TGPL như: Niêm yết bảng thông tin về TGPL, đặt hộp tin TGPL; phát miễn phí tờ gấp pháp luật, đơn yêu cầu TGPL; đề nghị Trung tâm, chi nhánh TGPL phối hợp thực hiện các hoạt động tuyên truyền và hướng dẫn về TGPL. Đặc biệt qua những phiên tòa xét xử lưu động, Tòa án nhân dân các cấp đã vận dụng, kết hợp tuyên truyền về quyền được TGPL đạt hiệu quả cao.
Ngoài ra, Tòa án nhân dân các cấp đã chủ động kết hợp trong việc thực hiện hoạt động tuyên truyền về nghiệp vụ cho cán bộ trong hệ thống Tòa án, qua đó giúp thẩm phán và các thẩm tra viên, thư ký Tòa án hiểu được ý nghĩa của TGPL và hướng dẫn người thuộc diện TGPL tiếp cận được thuận lợi với dịch vụ TGPL.
Tuy nhiên, công tác giải thích về quyền được TGPL cho người dân và đương sự còn gặp một số khó khăn, hạn chế như:
- Do nhận thức và hiểu biết về pháp luật nói chung và pháp luật về TGPL nói riêng của người dân còn hạn chế, nhất là đối với người nghèo, người dân tộc thiểu số tại vùng sâu, vùng xa, miền núi là những người có hoàn cảnh đặc biệt hoặc có trình độ dân trí thấp, không biết chữ nên mặc dù được giải thích nhưng họ vẫn chưa sử dụng quyền được TGPL của mình.
- Việc giải thích về quyền TGPL cho đương sự trong các vụ án dân sự có lúc, có nơi chưa được triệt để, sâu sắc.
1.2. Trách nhiệm thông báo, thông tin về trợ giúp pháp lý
Để đáp ứng kịp thời nhu cầu TGPL chính đáng của người dân, Thông tư liên tịch số 10 đã quy định về thông báo, thông tin về TGPL. Theo đó, trường hợp đương sự tự nhận mình là người được TGPL và có yêu cầu TGPL thì Tòa án có trách nhiệm thông báo cho Trung tâm, chi nhánh TGPL biết. Việc thông báo được thực hiện theo Mẫu số 03 ban hành kèm theo Thông tư liên tịch số 10. Trường hợp đương sự tự nhận mình là người được TGPL và chưa có yêu cầu TGPL thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thông tin cho Trung tâm, chi nhánh TGPL biết. Việc thông tin được thực hiện theo Mẫu số 04 ban hành kèm theo Thông tư liên tịch số 10. Tuy nhiên, việc thông báo, thông tin về TGPL còn gặp một số khó khăn như:
- Việc hướng dẫn quyền được TGPL cho đương sự còn hạn chế, phần lớn mới chú trọng đối với các vụ án hình sự. Đối với các vụ việc có đối tượng TGPL, Tòa án giới thiệu đến Trung tâm TGPL còn ít so với các vụ việc đã thụ lý, nhất là trong việc giải quyết các vụ việc dân sự.
- Nhận thức của một số cơ quan, tổ chức, cá nhân, đặc biệt của các cơ quan, người tiến hành tố tụng về vị trí và vai trò của công tác TGPL đối với người dân còn chưa sâu sắc, nhất là trong vụ án dân sự.
1.3. Trách nhiệm vào sổ đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
Ngoài trách nhiệm giải thích, hướng dẫn cho đương sự biết để họ thực hiện quyền được yêu cầu TGPL theo quy định của pháp luật về TGPL, Tòa án còn có trách nhiệm làm thủ tục đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự khi họ đề nghị theo quy định tại khoản 5 Điều 75 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Nội dung này cũng được liên ngành quy định cụ thể tại khoản 2 và 3 Điều 12 Thông tư liên tịch số 10.
Thực hiện quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và Thông tư liên tịch số 10, Tòa án nhân dân các cấp đã thực hiện đăng ký và ra thông báo đăng ký tham gia tố tụng cho trợ giúp viên pháp lý và tạo điều kiện cho trợ giúp viên pháp lý nghiên cứu hồ sơ theo quy định.
1.4. Trách nhiệm giao các văn bản tố tụng cho người thực hiện trợ giúp pháp lý; tạo điều kiện thuận lợi cho người thực hiện trợ giúp pháp lý
Để cụ thể hóa Điều 170 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 về việc cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng cho đương sự, những người tham gia tố tụng khác và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan, Điều 8 Thông tư liên tịch số 10 đã quy định cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng giao các văn bản tố tụng cho người thực hiện TGPL tham gia tố tụng trong vụ án, vụ việc theo quy định của pháp luật về tố tụng.
Thực hiện các quy định trên, trong thời gian qua Tòa án nhân dân các cấp đã kịp thời cung cấp các quyết định tố tụng theo quy định của pháp luật cho người thực hiện TGPL tham gia từng vụ án cụ thể để họ nắm được vụ án và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được TGPL. Trong nội dung bản án, quyết định ghi rõ họ tên, chức danh người thực hiện TGPL và ý kiến, quan điểm của người thực hiện TGPL khi tham gia tại phiên tòa.
Tòa án nhân dân các cấp bảo đảm cho người thực hiện TGPL khi tham gia tố tụng thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của người bào chữa hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người được TGPL theo quy định của pháp luật về tố tụng và pháp luật về TGPL; tạo điều kiện thuận lợi cho trợ giúp viên pháp lý tiếp cận các tài liệu và tham gia tố tụng theo quy định. Việc tham gia tố tụng của các trợ giúp viên pháp lý bảo đảm đúng quy định của pháp luật, bảo vệ được các quyền, lợi ích chính đáng của những người được TGPL, đem lại hiệu quả nhất định trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các đương sự, góp phần đảm bảo tính khách quan trong hoạt động xét xử.
Bên cạnh đó, để tạo điều kiện thuận lợi cho người thực hiện TGPL, khoản 9 Điều 8 Thông tư liên tịch số 10 quy định: “Khuyến khích cơ quan điều tra, Tòa án các cấp tạo điều kiện cho người thực hiện TGPL trực tại các cơ quan này phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương để người được TGPL biết và sử dụng dịch vụ TGPL kịp thời”. Thực hiện quy định này, một số Tòa án nhân dân cấp tỉnh đã phối hợp với Trung tâm TGPL và các thành viên của Hội đồng phối hợp liên ngành về TGPL trong hoạt động tố tụng nghiên cứu, tạo điều kiện cho người thực hiện TGPL trực tại cơ quan tiến hành tố tụng nói chung và tại Tòa án nói riêng phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương như: Cà Mau, Quảng Nam, Thái Bình, Hà Nội.
Ngoài ra, Thông tư liên tịch số 10 còn quy định một số trách nhiệm khác của Tòa án các cấp trong việc phối hợp thực hiện TGPL trong lĩnh vực tố tụng dân sự như: Thực hiện việc thống kê vào sổ theo dõi vụ việc TGPL trong hoạt động tố tụng theo Mẫu số 05 ban hành kèm theo Thông tư liên tịch số 10.
Tuy nhiên, công tác phối hợp liên ngành về trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng dân sự cũng gặp một số khó khăn, vướng mắc như:
- Một số Tòa án cấp huyện chưa thông báo kịp thời về thời gian xét xử vụ án để trợ giúp viên pháp lý tham gia tố tụng tại phiên tòa.
- Việc tham gia tố tụng của người thực hiện TGPL có nơi, có lúc còn chưa nghiêm túc, thiếu nhiệt tình.
- Việc phối hợp liên ngành trong lĩnh vực TGPL của các cơ quan liên quan nhất là các cơ quan, cá nhân là thành viên của Hội đồng phối hợp liên ngành về TGPL trong hoạt động tố tụng dân sự có lúc, có nơi còn chưa chặt chẽ.
Bên cạnh việc tạo điều kiện cho người thực hiện TGPL, Tòa án các cấp cũng có quyền xử lý người thực hiện TGPL nếu phát hiện họ có hành vi vi phạm pháp luật trong quá trình tố tụng nói chung và trong quá trình tố tụng dân sự nói riêng theo quy định của pháp luật và thông báo cho tổ chức thực hiện TGPL để kịp thời xử lý theo thẩm quyền và thay thế người thực hiện TGPL.
2. Giải pháp nâng cao hiệu quả phối hợp trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng dân sự của Tòa án
TGPL là một chính sách pháp luật mang tính nhân văn sâu sắc, thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta trong việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân, có ý nghĩa hỗ trợ quan trọng cho những đối tượng có hoàn cảnh khó khăn trong việc bảo vệ quyền lợi của mình. Do đó, việc không ngừng hoàn thiện, nâng cao hiệu quả của công tác TGPL là nhiệm vụ thường xuyên phải được các cấp, các ngành quan tâm chú trọng. Để công tác TGPL đạt hiệu quả tốt hơn nữa trong thời gian tới, chúng tôi đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả phối hợp TGPL trong hoạt động tố tụng nói chung và trong tố tụng dân sự của Tòa án nói riêng như sau:
Thứ nhất, phải tăng cường hơn nữa công tác truyền thông, đa dạng hóa các phương thức thực hiện truyền thông, tuyên truyền, phổ biến pháp luật về TGPL. Hoạt động này có ý nghĩa quan trọng vì qua đó nâng cao nhận thức của người dân về TGPL, về các đối tượng được TGPL, quyền và nghĩa vụ của các đối tượng được TGPL để họ biết và sử dụng dịch vụ TGPL miễn phí theo quy định của pháp luật. Đặc biệt, phải tập trung tăng cường phổ biến pháp luật về TGPL cho người dân ở vùng sâu, vùng xa còn gặp nhiều khó khăn, người dân ít có điều kiện được tiếp cận với các phương tiện thông tin đại chúng.
Thứ hai, nâng cao nhận thức của các cơ quan, tổ chức, cá nhân, đặc biệt là của các cơ quan, người tiến hành tố tụng về vị trí và vai trò của công tác TGPL đối với người dân, đặc biệt là những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn trong xã hội để cơ quan, người tiến hành tố tụng thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật về TGPL, góp phần hỗ trợ kịp thời những trường hợp cần TGPL trong quá trình tố tụng.
Thứ ba, đẩy mạnh phối hợp liên ngành trong lĩnh vực TGPL cùng với việc nâng cao trách nhiệm của các cơ quan liên quan nhất là các cơ quan, cá nhân là thành viên của Hội đồng phối hợp liên ngành về TGPL trong hoạt động tố tụng. Tạo điều kiện cho người thực hiện TGPL trực tại các cơ quan này phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương để người được TGPL biết và sử dụng dịch vụ TGPL kịp thời.
Thứ tư, tăng cường công tác chỉ đạo quán triệt các quy định của Thông tư liên tịch số 10 đến các cán bộ, đơn vị trực thuộc để thực hiện đúng, nghiêm chỉnh các quy định của Thông tư liên tịch này.
Thứ năm, nâng cao năng lực của đội ngũ thực hiện TGPL, tăng cường cả về số lượng và chất lượng trợ giúp viên pháp lý; nghiên cứu xây dựng, ban hành các chính sách thu hút những người có nhiều kinh nghiệm, nhiều thời gian công tác pháp luật trong các cơ quan nhà nước làm công tác TGPL; tăng cường tập huấn, bồi dưỡng kỹ năng thực hiện TGPL, đặc biệt là TGPL trong hoạt động tố tụng và kiến thức pháp luật, đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ trợ giúp viên pháp lý, luật sư cộng tác viên.
Thứ sáu, có kế hoạch tổng kết hàng năm về kết quả và các khó khăn, vướng mắc trong công tác TGPL trong hoạt động tố tụng; từ đó, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện để nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả của hoạt động này.
Thứ bảy, bảo đảm kinh phí và cơ sở vật chất cho hoạt động TGPL; tăng cường triển khai ứng dụng công nghệ thông tin trong lĩnh vực TGPL để thuận lợi cho việc quản lý, điều hành, kiểm tra, giám sát hoạt động TGPL, cập nhật, theo dõi các vụ việc có TGPL.
Thứ tám, nghiên cứu để đưa nội dung công tác TGPL thành một nội dung trọng tâm trong kế hoạch công tác hàng năm của các cơ quan đơn vị; cần coi việc TGPL là một trong các tiêu chí thi đua hàng năm của các cơ quan, đơn vị.
[1]. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 có ghi nhận: “Đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp”.
[2]. Khoản 5 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”.
1. Trách nhiệm của Tòa án liên quan đến trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng dân sự
Nhằm thể chế hóa quan điểm cải cách tư pháp của Đảng về nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên toà xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp[1], đồng thời cụ thể hóa “nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” đã được Hiến pháp năm 2013 ghi nhận[2], Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã quy định nguyên tắc “bảo đảm tranh tụng trong xét xử”. Theo đó, Tòa án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện quyền tranh tụng trong xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Đặc biệt, nhằm đảm bảo quyền tranh tụng của người có công với cách mạng, người yếu thế, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã bổ sung trách nhiệm của Nhà nước, của thẩm phán trong việc bảo đảm quyền TGPL của người thuộc diện được TGPL (Điều 9, Điều 48, Điều 75). Khoản 3 Điều 9 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định nguyên tắc: “Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm trợ giúp pháp lý cho các đối tượng theo quy định của pháp luật để họ thực hiện quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trước Tòa án”. Như vậy, việc bảo đảm quyền được TGPL khi xét xử tại Tòa án đã được Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 ghi nhận như một nguyên tắc cơ bản, được Nhà nước bảo đảm thực hiện.
1.1. Trách nhiệm tuyên truyền giải thích, hướng dẫn cho đương sự biết về quyền được yêu cầu trợ giúp pháp lý trong tố tụng dân sự
Cụ thể hóa nguyên tắc tranh tụng, nhất là đối với người thuộc diện được TGPL, bảo đảm họ biết quyền được yêu cầu TGPL để thực hiện quyền của mình, khoản 6 Điều 48 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và điểm c khoản 1 Điều 7 Thông tư liên tịch số 10/2018/TTLT-BTP-BCA-BQP-BTC-TANDTC-VKSNDTC ngày 29/6/2018 của Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao quy định về phối hợp thực hiện trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng (Thông tư liên tịch số 10) đã quy định: Thẩm phán có trách nhiệm giải thích, hướng dẫn cho đương sự biết để họ thực hiện quyền được yêu cầu TGPL theo quy định của pháp luật về TGPL.
Trong thời gian qua, Tòa án nhân dân các cấp đã thực hiện nhiều phương thức tuyên truyền về TGPL cho người dân nói chung, đương sự trong các vụ án dân sự nói riêng, để họ dễ dàng tiếp cận quyền TGPL như: Niêm yết bảng thông tin về TGPL, đặt hộp tin TGPL; phát miễn phí tờ gấp pháp luật, đơn yêu cầu TGPL; đề nghị Trung tâm, chi nhánh TGPL phối hợp thực hiện các hoạt động tuyên truyền và hướng dẫn về TGPL. Đặc biệt qua những phiên tòa xét xử lưu động, Tòa án nhân dân các cấp đã vận dụng, kết hợp tuyên truyền về quyền được TGPL đạt hiệu quả cao.
Ngoài ra, Tòa án nhân dân các cấp đã chủ động kết hợp trong việc thực hiện hoạt động tuyên truyền về nghiệp vụ cho cán bộ trong hệ thống Tòa án, qua đó giúp thẩm phán và các thẩm tra viên, thư ký Tòa án hiểu được ý nghĩa của TGPL và hướng dẫn người thuộc diện TGPL tiếp cận được thuận lợi với dịch vụ TGPL.
Tuy nhiên, công tác giải thích về quyền được TGPL cho người dân và đương sự còn gặp một số khó khăn, hạn chế như:
- Do nhận thức và hiểu biết về pháp luật nói chung và pháp luật về TGPL nói riêng của người dân còn hạn chế, nhất là đối với người nghèo, người dân tộc thiểu số tại vùng sâu, vùng xa, miền núi là những người có hoàn cảnh đặc biệt hoặc có trình độ dân trí thấp, không biết chữ nên mặc dù được giải thích nhưng họ vẫn chưa sử dụng quyền được TGPL của mình.
- Việc giải thích về quyền TGPL cho đương sự trong các vụ án dân sự có lúc, có nơi chưa được triệt để, sâu sắc.
1.2. Trách nhiệm thông báo, thông tin về trợ giúp pháp lý
Để đáp ứng kịp thời nhu cầu TGPL chính đáng của người dân, Thông tư liên tịch số 10 đã quy định về thông báo, thông tin về TGPL. Theo đó, trường hợp đương sự tự nhận mình là người được TGPL và có yêu cầu TGPL thì Tòa án có trách nhiệm thông báo cho Trung tâm, chi nhánh TGPL biết. Việc thông báo được thực hiện theo Mẫu số 03 ban hành kèm theo Thông tư liên tịch số 10. Trường hợp đương sự tự nhận mình là người được TGPL và chưa có yêu cầu TGPL thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thông tin cho Trung tâm, chi nhánh TGPL biết. Việc thông tin được thực hiện theo Mẫu số 04 ban hành kèm theo Thông tư liên tịch số 10. Tuy nhiên, việc thông báo, thông tin về TGPL còn gặp một số khó khăn như:
- Việc hướng dẫn quyền được TGPL cho đương sự còn hạn chế, phần lớn mới chú trọng đối với các vụ án hình sự. Đối với các vụ việc có đối tượng TGPL, Tòa án giới thiệu đến Trung tâm TGPL còn ít so với các vụ việc đã thụ lý, nhất là trong việc giải quyết các vụ việc dân sự.
- Nhận thức của một số cơ quan, tổ chức, cá nhân, đặc biệt của các cơ quan, người tiến hành tố tụng về vị trí và vai trò của công tác TGPL đối với người dân còn chưa sâu sắc, nhất là trong vụ án dân sự.
1.3. Trách nhiệm vào sổ đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
Ngoài trách nhiệm giải thích, hướng dẫn cho đương sự biết để họ thực hiện quyền được yêu cầu TGPL theo quy định của pháp luật về TGPL, Tòa án còn có trách nhiệm làm thủ tục đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự khi họ đề nghị theo quy định tại khoản 5 Điều 75 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Nội dung này cũng được liên ngành quy định cụ thể tại khoản 2 và 3 Điều 12 Thông tư liên tịch số 10.
Thực hiện quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và Thông tư liên tịch số 10, Tòa án nhân dân các cấp đã thực hiện đăng ký và ra thông báo đăng ký tham gia tố tụng cho trợ giúp viên pháp lý và tạo điều kiện cho trợ giúp viên pháp lý nghiên cứu hồ sơ theo quy định.
1.4. Trách nhiệm giao các văn bản tố tụng cho người thực hiện trợ giúp pháp lý; tạo điều kiện thuận lợi cho người thực hiện trợ giúp pháp lý
Để cụ thể hóa Điều 170 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 về việc cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng cho đương sự, những người tham gia tố tụng khác và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan, Điều 8 Thông tư liên tịch số 10 đã quy định cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng giao các văn bản tố tụng cho người thực hiện TGPL tham gia tố tụng trong vụ án, vụ việc theo quy định của pháp luật về tố tụng.
Thực hiện các quy định trên, trong thời gian qua Tòa án nhân dân các cấp đã kịp thời cung cấp các quyết định tố tụng theo quy định của pháp luật cho người thực hiện TGPL tham gia từng vụ án cụ thể để họ nắm được vụ án và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được TGPL. Trong nội dung bản án, quyết định ghi rõ họ tên, chức danh người thực hiện TGPL và ý kiến, quan điểm của người thực hiện TGPL khi tham gia tại phiên tòa.
Tòa án nhân dân các cấp bảo đảm cho người thực hiện TGPL khi tham gia tố tụng thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của người bào chữa hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người được TGPL theo quy định của pháp luật về tố tụng và pháp luật về TGPL; tạo điều kiện thuận lợi cho trợ giúp viên pháp lý tiếp cận các tài liệu và tham gia tố tụng theo quy định. Việc tham gia tố tụng của các trợ giúp viên pháp lý bảo đảm đúng quy định của pháp luật, bảo vệ được các quyền, lợi ích chính đáng của những người được TGPL, đem lại hiệu quả nhất định trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các đương sự, góp phần đảm bảo tính khách quan trong hoạt động xét xử.
Bên cạnh đó, để tạo điều kiện thuận lợi cho người thực hiện TGPL, khoản 9 Điều 8 Thông tư liên tịch số 10 quy định: “Khuyến khích cơ quan điều tra, Tòa án các cấp tạo điều kiện cho người thực hiện TGPL trực tại các cơ quan này phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương để người được TGPL biết và sử dụng dịch vụ TGPL kịp thời”. Thực hiện quy định này, một số Tòa án nhân dân cấp tỉnh đã phối hợp với Trung tâm TGPL và các thành viên của Hội đồng phối hợp liên ngành về TGPL trong hoạt động tố tụng nghiên cứu, tạo điều kiện cho người thực hiện TGPL trực tại cơ quan tiến hành tố tụng nói chung và tại Tòa án nói riêng phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương như: Cà Mau, Quảng Nam, Thái Bình, Hà Nội.
Ngoài ra, Thông tư liên tịch số 10 còn quy định một số trách nhiệm khác của Tòa án các cấp trong việc phối hợp thực hiện TGPL trong lĩnh vực tố tụng dân sự như: Thực hiện việc thống kê vào sổ theo dõi vụ việc TGPL trong hoạt động tố tụng theo Mẫu số 05 ban hành kèm theo Thông tư liên tịch số 10.
Tuy nhiên, công tác phối hợp liên ngành về trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng dân sự cũng gặp một số khó khăn, vướng mắc như:
- Một số Tòa án cấp huyện chưa thông báo kịp thời về thời gian xét xử vụ án để trợ giúp viên pháp lý tham gia tố tụng tại phiên tòa.
- Việc tham gia tố tụng của người thực hiện TGPL có nơi, có lúc còn chưa nghiêm túc, thiếu nhiệt tình.
- Việc phối hợp liên ngành trong lĩnh vực TGPL của các cơ quan liên quan nhất là các cơ quan, cá nhân là thành viên của Hội đồng phối hợp liên ngành về TGPL trong hoạt động tố tụng dân sự có lúc, có nơi còn chưa chặt chẽ.
Bên cạnh việc tạo điều kiện cho người thực hiện TGPL, Tòa án các cấp cũng có quyền xử lý người thực hiện TGPL nếu phát hiện họ có hành vi vi phạm pháp luật trong quá trình tố tụng nói chung và trong quá trình tố tụng dân sự nói riêng theo quy định của pháp luật và thông báo cho tổ chức thực hiện TGPL để kịp thời xử lý theo thẩm quyền và thay thế người thực hiện TGPL.
2. Giải pháp nâng cao hiệu quả phối hợp trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng dân sự của Tòa án
TGPL là một chính sách pháp luật mang tính nhân văn sâu sắc, thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta trong việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân, có ý nghĩa hỗ trợ quan trọng cho những đối tượng có hoàn cảnh khó khăn trong việc bảo vệ quyền lợi của mình. Do đó, việc không ngừng hoàn thiện, nâng cao hiệu quả của công tác TGPL là nhiệm vụ thường xuyên phải được các cấp, các ngành quan tâm chú trọng. Để công tác TGPL đạt hiệu quả tốt hơn nữa trong thời gian tới, chúng tôi đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả phối hợp TGPL trong hoạt động tố tụng nói chung và trong tố tụng dân sự của Tòa án nói riêng như sau:
Thứ nhất, phải tăng cường hơn nữa công tác truyền thông, đa dạng hóa các phương thức thực hiện truyền thông, tuyên truyền, phổ biến pháp luật về TGPL. Hoạt động này có ý nghĩa quan trọng vì qua đó nâng cao nhận thức của người dân về TGPL, về các đối tượng được TGPL, quyền và nghĩa vụ của các đối tượng được TGPL để họ biết và sử dụng dịch vụ TGPL miễn phí theo quy định của pháp luật. Đặc biệt, phải tập trung tăng cường phổ biến pháp luật về TGPL cho người dân ở vùng sâu, vùng xa còn gặp nhiều khó khăn, người dân ít có điều kiện được tiếp cận với các phương tiện thông tin đại chúng.
Thứ hai, nâng cao nhận thức của các cơ quan, tổ chức, cá nhân, đặc biệt là của các cơ quan, người tiến hành tố tụng về vị trí và vai trò của công tác TGPL đối với người dân, đặc biệt là những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn trong xã hội để cơ quan, người tiến hành tố tụng thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật về TGPL, góp phần hỗ trợ kịp thời những trường hợp cần TGPL trong quá trình tố tụng.
Thứ ba, đẩy mạnh phối hợp liên ngành trong lĩnh vực TGPL cùng với việc nâng cao trách nhiệm của các cơ quan liên quan nhất là các cơ quan, cá nhân là thành viên của Hội đồng phối hợp liên ngành về TGPL trong hoạt động tố tụng. Tạo điều kiện cho người thực hiện TGPL trực tại các cơ quan này phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương để người được TGPL biết và sử dụng dịch vụ TGPL kịp thời.
Thứ tư, tăng cường công tác chỉ đạo quán triệt các quy định của Thông tư liên tịch số 10 đến các cán bộ, đơn vị trực thuộc để thực hiện đúng, nghiêm chỉnh các quy định của Thông tư liên tịch này.
Thứ năm, nâng cao năng lực của đội ngũ thực hiện TGPL, tăng cường cả về số lượng và chất lượng trợ giúp viên pháp lý; nghiên cứu xây dựng, ban hành các chính sách thu hút những người có nhiều kinh nghiệm, nhiều thời gian công tác pháp luật trong các cơ quan nhà nước làm công tác TGPL; tăng cường tập huấn, bồi dưỡng kỹ năng thực hiện TGPL, đặc biệt là TGPL trong hoạt động tố tụng và kiến thức pháp luật, đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ trợ giúp viên pháp lý, luật sư cộng tác viên.
Thứ sáu, có kế hoạch tổng kết hàng năm về kết quả và các khó khăn, vướng mắc trong công tác TGPL trong hoạt động tố tụng; từ đó, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện để nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả của hoạt động này.
Thứ bảy, bảo đảm kinh phí và cơ sở vật chất cho hoạt động TGPL; tăng cường triển khai ứng dụng công nghệ thông tin trong lĩnh vực TGPL để thuận lợi cho việc quản lý, điều hành, kiểm tra, giám sát hoạt động TGPL, cập nhật, theo dõi các vụ việc có TGPL.
Thứ tám, nghiên cứu để đưa nội dung công tác TGPL thành một nội dung trọng tâm trong kế hoạch công tác hàng năm của các cơ quan đơn vị; cần coi việc TGPL là một trong các tiêu chí thi đua hàng năm của các cơ quan, đơn vị.
Ngô Văn Nhạc
Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học, Tòa án nhân dân tối cao
Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học, Tòa án nhân dân tối cao
[1]. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 có ghi nhận: “Đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp”.
[2]. Khoản 5 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”.