Thứ hai 08/12/2025 05:27
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Giải quyết việc hộ tịch trong mối liên hệ với các vấn đề về quốc tịch

Khoản 13 Điều 4 Luật Hộ tịch năm 2014 quy định: Bổ sung hộ tịch là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền cập nhật thông tin hộ tịch còn thiếu cho cá nhân đã được đăng ký.

Đăng ký hộ tịch là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận hoặc ghi vào sổ hộ tịch các sự kiện hộ tịch của cá nhân (sinh; kết hôn; tử; nhận cha, mẹ, con; giám hộ; thay đổi, cải chính, bổ sung hộ tịch, xác định lại dân tộc; ghi vào sổ hộ tịch việc thay đổi hộ tịch của cá nhân theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; ghi vào sổ hộ tịch việc hộ tịch của công dân Việt Nam đã được giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài ở nước ngoài…) tạo cơ sở pháp lý để Nhà nước bảo hộ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, thực hiện quản lý về dân cư. Quốc tịch là một phạm trù chính trị - pháp lý, thể hiện mối quan hệ gắn bó, bền vững về chính trị và pháp lý giữa Nhà nước và cá nhân, là căn cứ pháp lý xác định công dân của một Nhà nước và trên cơ sở đó làm phát sinh quyền và nghĩa vụ qua lại giữa Nhà nước và công dân. Nắm vững các quy định về quốc tịch sẽ bảo đảm cho việc đăng ký các sự kiện hộ tịch được khách quan, chính xác, đáp ứng được yêu cầu chính đáng của người dân.

1. Đăng ký khai sinh

Theo quy định tại Điều 14 Luật Hộ tịch năm 2014 thì thông tin về quốc tịch là thông tin cơ bản trong nội dung đăng ký khai sinh (ĐKKS), được ghi vào sổ hộ tịch, giấy khai sinh, cập nhật vào Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử và Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư. Pháp luật về quốc tịch Việt Nam đã có những quy định bảo đảm mọi trẻ em khi ĐKKS đều có quyền có quốc tịch, tránh bị rơi vào tình trạng không quốc tịch hoặc chưa xác định được quốc tịch.

1.1. Quy định của pháp luật hộ tịch, quốc tịch về đăng ký khai sinh có yếu tố nước ngoài, xác định quốc tịch

- Thẩm quyền ĐKKS có yếu tố nước ngoài

Theo quy định tại Điều 35 Luật Hộ tịch năm 2014, trường hợp trẻ em sinh ra tại Việt Nam, nhưng một bên cha hoặc mẹ là người nước ngoài/người không quốc tịch/công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài hoặc có cả cha và mẹ là người nước ngoài/người không quốc tịch/công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài thì được xác định là ĐKKS có yếu tố nước ngoài, thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi cư trú của người cha hoặc người mẹ.

Trường hợp trẻ sinh tại nước ngoài, về Việt Nam cư trú, có cả cha và mẹ là công dân Việt Nam hoặc một trong hai người là công dân Việt Nam thì việc ĐKKS cũng thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi cư trú của người cha hoặc người mẹ.

- Hồ sơ ĐKKS có yếu tố nước ngoài

Theo quy định tại Điều 16 Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008, được sửa đổi, bổ sung năm 2014 (Luật Quốc tịch Việt Nam), trẻ em sinh ra có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam còn người kia là người nước ngoài thì xác định quốc tịch theo thỏa thuận của cha mẹ tại thời điểm ĐKKS. Bảo đảm phù hợp với quy định này, đối với hồ sơ ĐKKS có yếu tố nước ngoài, pháp luật hộ tịch quy định ngoài tờ khai ĐKKS, giấy chứng sinh hoặc giấy tờ thay thế giấy chứng sinh theo quy định tại Điều 16 Luật Hộ tịch năm 2014, nếu cha hoặc mẹ hoặc cả cha và mẹ của trẻ là người nước ngoài thì người yêu cầu ĐKKS phải nộp văn bản thỏa thuận của cha mẹ lựa chọn quốc tịch cho con; trường hợp cha mẹ chọn quốc tịch nước ngoài cho con khi ĐKKS phải có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền của nước mà trẻ được chọn mang quốc tịch về việc trẻ có quốc tịch phù hợp quy định pháp luật nước đó. Nếu cơ quan có thẩm quyền không xác nhận thì cơ quan đăng ký hộ tịch thực hiện ĐKKS cho trẻ, nhưng để trống phần ghi về quốc tịch trong giấy khai sinh và sổ ĐKKS[1].

Đối với trường hợp trẻ sinh ra ở nước ngoài, ngoài các giấy tờ nêu trên, người có yêu cầu ĐKKS còn phải xuất trình giấy tờ chứng minh việc trẻ em đã nhập cảnh hợp pháp và cư trú tại Việt Nam, bao gồm: Giấy tờ chứng minh việc trẻ đã nhập cảnh hợp pháp vào Việt Nam (như hộ chiếu, giấy tờ có giá trị đi lại quốc tế có dấu xác nhận nhập cảnh của cơ quan quản lý xuất, nhập cảnh) và văn bản xác nhận của cơ quan công an có thẩm quyền về việc trẻ đang cư trú tại Việt Nam[2].

- Về xác định nội dung ĐKKS (xác định quốc tịch)

Khoản 2 Điều 14 Luật Hộ tịch năm 2014 quy định, việc xác định quốc tịch của người được khai sinh thực hiện theo quy định của pháp luật về quốc tịch. Theo đó, Luật Quốc tịch Việt Nam đã có quy định về việc xác định quốc tịch đối với từng trường hợp cụ thể như sau:

+ Đối với trẻ em sinh ra ở nước ngoài mà có cả cha và mẹ là công dân Việt Nam, Điều 15 Luật Quốc tịch Việt Nam quy định: Trẻ em sinh ra trong hoặc ngoài lãnh thổ Việt Nam mà khi sinh ra có cha mẹ đều là công dân Việt Nam thì có quốc tịch Việt Nam. Trường hợp này, trẻ em có quốc tịch Việt Nam ngay từ thời điểm sinh ra, không phụ thuộc vào việc được khai sinh và xác định có quốc tịch nước ngoài hay chưa.

+ Đối với trẻ em có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam còn người kia là công dân nước ngoài (kể cả trong trường hợp sinh ra ở trong nước hoặc sinh ra ở nước ngoài), khoản 2 Điều 16 Luật Quốc tịch Việt Nam quy định: Trẻ em khi sinh ra có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam còn người kia là công dân nước ngoài thì có quốc tịch Việt Nam, nếu có sự thỏa thuận bằng văn bản của cha mẹ vào thời điểm ĐKKS cho con. Căn cứ quy định này thì trẻ em có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam còn người kia là công dân nước ngoài thì không đương nhiên có quốc tịch Việt Nam, trẻ chỉ có quốc tịch Việt Nam nếu tại thời điểm ĐKKS, cha mẹ trẻ có sự thỏa thuận bằng văn bản lựa chọn quốc tịch Việt Nam cho con.

+ Đối với trẻ em khi sinh ra có cha hoặc mẹ là người không quốc tịch, theo Điều 17 Luật Quốc tịch Việt Nam, trẻ em sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam mà khi sinh ra có cha mẹ đều là người không quốc tịch, nhưng có nơi thường trú tại Việt Nam thì có quốc tịch Việt Nam. Trẻ em sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam mà khi sinh ra có mẹ là người không quốc tịch, nhưng có nơi thường trú tại Việt Nam, còn cha không rõ là ai thì có quốc tịch Việt Nam.

Ngoài ra, Điều 18 Luật Quốc tịch Việt Nam còn quy định việc xác định quốc tịch của trẻ sơ sinh bị bỏ rơi, trẻ em được tìm thấy trên lãnh thổ Việt Nam. Theo đó, trẻ sơ sinh bị bỏ rơi, trẻ em được tìm thấy trên lãnh thổ Việt Nam mà không rõ cha mẹ là ai thì có quốc tịch Việt Nam, trường hợp trẻ tìm thấy cha mẹ mà cha mẹ chỉ có quốc tịch nước ngoài hoặc chỉ tìm thấy cha hoặc mẹ mà người đó chỉ có quốc tịch nước ngoài thì trẻ chưa đủ 15 tuổi không còn quốc tịch Việt Nam.

1.2. Một số tình huống khi giải quyết việc đăng ký khai sinh có yếu tố nước ngoài liên quan đến vấn đề quốc tịch

Thứ nhất, về tên gọi của trẻ, Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định tên của công dân Việt Nam phải bằng tiếng Việt hoặc tiếng dân tộc khác của Việt Nam (khoản 3 Điều 26). Luật Quốc tịch Việt Nam cũng quy định người xin nhập quốc tịch Việt Nam phải có tên gọi Việt Nam (khoản 4 Điều 19). Như vậy, nếu mang quốc tịch Việt Nam thì các tên như Close Nguyễn Dean, Nguyễn John, Lê Maika... là không phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành. Thực tế cho thấy, nhiều trường hợp ĐKKS có yếu tố nước ngoài, mặc dù cha mẹ lựa chọn quốc tịch Việt Nam cho trẻ nhưng do trẻ có một bên cha hoặc mẹ là người nước ngoài nên ngoài việc lựa chọn họ nước ngoài theo họ cha hoặc họ mẹ thì cha mẹ trẻ thường muốn trẻ có tên nước ngoài (đặc biệt đối với trẻ đang cư trú ở nước ngoài). Trước đây, Thông tư số 01/2008/TT-BTP ngày 02/6/2008 của Bộ Tư pháp hướng dẫn thực hiện một số quy định của Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch có quy định về việc đặt tên ghép giữa tên Việt Nam và tên nước ngoài (điểm c khoản 1 mục III). Tuy nhiên, hiện tại, Luật Hộ tịch năm 2014 và các văn bản quy định chi tiết thi hành không quy định về việc đặt tên ghép giữa tên Việt Nam và tên nước ngoài, do đó, cơ quan đăng ký hộ tịch giải thích cho người dân trong quá trình thụ lý hồ sơ.

Thứ hai, một số trường hợp trẻ sinh ra tại nước ngoài được thân nhân đưa về Việt Nam sinh sống, yêu cầu cơ quan đăng ký hộ tịch của Việt Nam ĐKKS, nhưng thông tin quốc tịch của trẻ được cung cấp không xác thực (thân nhân thường cam đoan trẻ chưa được ĐKKS tại nước ngoài, chưa có quốc tịch nước ngoài, để được ĐKKS tại cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam với thông tin quốc tịch Việt Nam). Kết quả xác minh của cơ quan quản lý hộ tịch sau khi phối hợp với các cơ quan có liên quan cho thấy, các trường hợp này đã được ĐKKS tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài và được nước sở tại cấp hộ chiếu. Do vậy, đối với những trường hợp này, các thông tin liên quan đến sự kiện sinh cần được xác minh chặt chẽ, nhất là việc trẻ đã được ĐKKS tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài hay chưa. Cơ quan hộ tịch của Việt Nam chỉ tiếp nhận, giải quyết nếu có cơ sở khẳng định trẻ chưa được ĐKKS; đồng thời, hồ sơ phải có các giấy tờ chứng minh việc trẻ nhập cảnh vào Việt Nam; nếu trẻ đã được ĐKKS tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài thì hướng dẫn người yêu cầu liên hệ với cơ quan đại diện của nước ngoại tại Việt Nam để được hỗ trợ, giải quyết.

Thứ ba, một số trẻ có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam, sinh ra ở nước ngoài nhưng có hai giấy chứng sinh, nên đã sử dụng hai giấy chứng sinh để ĐKKS hai lần tại hai cơ quan đăng ký hộ tịch (nước ngoài và Việt Nam). Các trường hợp này đã được ĐKKS tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài với thông tin theo giấy chứng sinh thứ nhất (cha hoặc mẹ hoặc cả cha mẹ không đúng với thực tế) và đã nhập cảnh về Việt Nam bằng hộ chiếu nước ngoài. Sau khi về Việt Nam, cha hoặc mẹ đẻ của trẻ (là công dân Việt Nam) lại xuất trình giấy chứng sinh thứ 2, trong đó, thông tin về cha, mẹ không trùng khớp với giấy khai sinh đã đăng ký tại nước ngoài, nhưng có kèm theo kết quả giám định ADN khẳng định quan hệ cha - con/mẹ - con và yêu cầu cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam ĐKKS kết hợp với giải quyết nhận cha - con/mẹ - con. Về nguyên tắc, những trẻ này là công dân nước ngoài (đã có hộ chiếu nước ngoài), do đó, cần phải phối hợp với cơ quan đại diện nước ngoài tại Việt Nam để kiểm tra, xác minh việc ĐKKS tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài với thông tin không chính xác, xác minh việc cùng một trẻ nhưng được hai cơ sở y tế của nước ngoài cấp hai giấy chứng sinh với thông tin khác nhau về cha, mẹ và có hướng xử lý đối với quốc tịch nước ngoài của trẻ.

Thứ tư, trường hợp trẻ em là con chung của phụ nữ Việt Nam với công dân nước ngoài, nhưng cha, mẹ trẻ không đăng ký kết hôn như trường hợp, mẹ của trẻ là công dân Việt Nam, đã từng xuất cảnh ra nước ngoài theo diện kết hôn (có trường hợp vẫn còn quốc tịch Việt Nam, có trường hợp đã thôi quốc tịch Việt Nam và nhập quốc tịch nước ngoài), sau khi ly hôn với người chồng nước ngoài, đã chung sống (không đăng ký kết hôn) với người đàn ông khác, sau đó về Việt Nam sinh con. Do cha, mẹ trẻ không đăng ký kết hôn, người cha cũng không có yêu cầu đăng ký nhận con nên trẻ được ĐKKS theo diện con ngoài giá thú. Tuy nhiên, trong số này có trường hợp người mẹ đã thôi quốc tịch Việt Nam, nên để có cơ sở xác định thẩm quyền ĐKKS cho trẻ, cần xác minh thông tin về quốc tịch của người mẹ. Nếu người mẹ còn quốc tịch Việt Nam thì Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của người mẹ giải quyết yêu cầu ĐKKS cho trẻ theo diện trẻ chưa xác định được cha, quốc tịch của trẻ được xác định là quốc tịch Việt Nam theo quy định tại khoản 1 Điều 16 Luật Quốc tịch Việt Nam. Nếu người mẹ đã thôi quốc tịch Việt Nam và nhập quốc tịch nước ngoài thì Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi cư trú của người mẹ có thẩm quyền giải quyết ĐKKS cho trẻ, quốc tịch của trẻ được xác định theo quốc tịch của người mẹ.

Thứ năm, ghi vào sổ hộ tịch việc khai sinh đã đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài: Theo quy định tại Điều 15 Luật Quốc tịch Việt Nam thì trẻ em sinh ra trong hoặc ngoài lãnh thổ Việt Nam mà khi sinh ra có cha mẹ đều là công dân Việt Nam thì có quốc tịch Việt Nam (quốc tịch theo huyết thống). Trong khi đó, một số nước áp dụng nguyên tắc quốc tịch theo “nơi sinh”, theo đó, trẻ sinh ra trong phạm vi lãnh thổ thì có quốc tịch nước này mà không phụ thuộc vào quốc tịch của cha mẹ. Từ xung đột pháp luật trên, một số trẻ đã được ĐKKS tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài, giấy khai sinh đã ghi quốc tịch nước ngoài nhưng khi về Việt Nam, cha mẹ trẻ có nguyện vọng ghi vào sổ hộ tịch việc khai sinh đã được giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài để được cấp giấy tờ hộ tịch của Việt Nam, xác định quốc tịch Việt Nam. Trong trường hợp này, mặc dù trên giấy khai sinh do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cấp ghi quốc tịch nước ngoài, tuy nhiên, vì trẻ có quốc tịch Việt Nam theo nguyên tắc huyết thống nên có cơ sở để tiếp nhận yêu cầu ghi chú khai sinh, thông tin quốc tịch của trẻ trong trích lục ghi chú khai sinh và sổ ĐKKS được ghi là quốc tịch Việt Nam. Nếu tên của trẻ trong giấy khai sinh là tên nước ngoài, cơ quan đăng ký hộ tịch hướng dẫn cha mẹ trẻ lựa chọn tên tiếng Việt để ghi vào trích lục ghi chú và giấy khai sinh bản sao.

Thứ sáu, theo quy định tại Điều 11 Luật Quốc tịch Việt Nam thì giấy khai sinh là một trong những giấy tờ có giá trị chứng minh quốc tịch Việt Nam của cá nhân. Tuy nhiên, thực tế có những trường hợp giấy khai sinh được cấp không đúng với quy định của pháp luật, đặc biệt là việc xác định quốc tịch Việt Nam khi ĐKKS, vì vậy, khi giải quyết hồ sơ cần phải xem xét trong mối quan hệ với Điều 14 Luật Quốc tịch Việt Nam (căn cứ xác định người có quốc tịch Việt Nam).

Thứ bảy, việc xác định quốc tịch của con chưa thành niên khi có sự thay đổi quốc tịch của cha mẹ được thực hiện theo quy định tại Điều 35, Điều 36 Luật Quốc tịch Việt Nam.

2. Đăng ký kết hôn

2.1. Thẩm quyền đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài

Điều 37 Luật Hộ tịch năm 2014 quy định, Ủy ban nhân dân cấp huyện là cơ quan có thẩm quyền thực hiện đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài; giữa công dân Việt Nam cư trú ở trong nước với công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài; giữa công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài với nhau; giữa công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài với công dân Việt Nam hoặc với người nước ngoài; giữa người nước ngoài cư trú tại Việt Nam với nhau.

Luật Quốc tịch Việt Nam quy định, người Việt Nam định cư ở nước ngoài là công dân Việt Nam cư trú, sinh sống lâu dài ở nước ngoài. Ngoài ra, pháp luật Việt Nam chưa có quy định cụ thể thế nào là định cư/cư trú lâu dài ở nước ngoài, do đó, trên thực tế, nhiều trường hợp công dân Việt Nam đã định cư ở nước ngoài nhưng chưa xóa hộ khẩu thường trú trong nước, ngược lại, có những trường hợp cư trú, sinh sống lâu dài ở nước ngoài nhưng lại chưa được cấp thẻ định cư gây khó khăn cho công chức làm công tác hộ tịch khi xác định thẩm quyền đăng ký kết hôn.

Để xác định rõ hơn thẩm quyền giải quyết việc đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam cư trú ở nước ngoài với nhau hoặc với công dân Việt Nam cư trú ở trong nước, tránh tình trạng hiểu và xác định không đúng về thẩm quyền giải quyết yêu cầu đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài, khoản 2 Điều 11 Thông tư số 04/2020/TT-BTP ngày 28/5/2020 của Bộ Tư pháp quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hộ tịch và Nghị định số 123/2015-NĐ-CP (Thông tư số 04/2020/TT-BTP) đã quy định: Trường hợp công dân Việt Nam đã được cơ quan có thẩm quyền nước ngoài cấp giấy tờ cho phép cư trú, có yêu cầu kết hôn với nhau hoặc kết hôn với công dân Việt Nam cư trú ở trong nước thì thẩm quyền đăng ký kết hôn thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện theo quy định tại Điều 37 Luật Hộ tịch năm 2014.

Trường hợp công dân Việt Nam thường trú ở khu vực biên giới kết hôn với công dân của nước láng giềng thường trú ở khu vực biên giới với Việt Nam thì thẩm quyền thuộc Ủy ban nhân dân xã ở khu vực biên giới (khoản 1 Điều 18 Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch (Nghị định số 123/2015/NĐ-CP)).

2.2. Hồ sơ đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài

Một trong những giấy tờ mà người nước ngoài, công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài phải nộp là giấy tờ chứng minh tình trạng hôn nhân do cơ quan có thẩm quyền của nước mà người đó là công dân (đối với người nước ngoài) hoặc do cơ quan có thẩm quyền của nước mà người đó cư trú (đối với trường hợp công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài) cấp còn giá trị sử dụng, xác nhận hiện tại người đó không có vợ hoặc không có chồng; trường hợp nước ngoài không cấp xác nhận tình trạng hôn nhân thì thay bằng giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền nước ngoài xác nhận người đó có đủ điều kiện kết hôn theo pháp luật nước đó.

- Đối với công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài chưa có quốc tịch nước ngoài phải nộp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân do cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài cấp hoặc giấy tờ chứng minh tình trạng hôn nhân do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cấp.

- Đối với công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài thì ngoài giấy xác nhận tình trạng hôn nhân do cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài cấp, phải nộp thêm giấy tờ chứng minh tình trạng hôn nhân do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cấp. Một số ý kiến cho rằng, quy định này chưa bảo đảm phù hợp với nguyên tắc “chỉ công nhận quốc tịch Việt Nam đối với công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài trong quan hệ với cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam” nêu tại Điều 5 Luật Quốc tịch Việt Nam. Tuy nhiên, đặt trong mối liên hệ với pháp luật hộ tịch, việc yêu cầu công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài phải nộp cả giấy xác nhận tình trạng hôn nhân do cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài và cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cấp nhằm bảo đảm quyền lợi của chính công dân đó trong quan hệ hôn nhân và gia đình, đồng thời bảo đảm phù hợp với quy định về trách nhiệm cung cấp chính xác tình trạng hôn nhân đối với trường hợp công dân đã từng cư trú tại nhiều nơi khác nhau quy định tại khoản 4 Điều 22 Nghị định số 123/2015/NĐ-CP.

Việc ghi quốc tịch trong giấy chứng nhận kết hôn, sổ đăng ký kết hôn vẫn bảo đảm nguyên tắc nêu trên, trường hợp công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền Việt Nam thì chỉ ghi quốc tịch “Việt Nam”.

Việc xác định quốc tịch của cá nhân khi kết hôn, ly hôn, hủy việc kết hôn trái pháp luật hoặc khi có sự thay đổi quốc tịch của một bên vợ/chồng được quy định tại Điều 9, Điều 10 và khoản 2 Điều 33 Luật Quốc tịch Việt Nam. Từ những quy định này cho thấy, trừ việc bị tước quốc tịch thì việc nhập, thôi, trở lại quốc tịch Việt Nam của một cá nhân trước hết trên cơ sở đơn tự nguyện của cá nhân đó, mà không bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi quốc tịch của một bên vợ/chồng.

3. Đăng ký khai tử

3.1. Thẩm quyền đăng ký khai tử có yếu tố nước ngoài

Thẩm quyền đăng ký khai tử có yếu tố nước ngoài được quy định tại Điều 51 Luật Hộ tịch năm 2014, khoản 1 Điều 20 Nghị định số 123/2015/NĐ-CP.

3.2. Hồ sơ đăng ký khai tử có yếu tố nước ngoài

Ngoài tờ khai đăng ký khai tử, người đi đăng ký khai tử phải nộp giấy báo tử hoặc giấy tờ khác thay cho giấy báo tử.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 11 Thông tư liên tịch số 02/2016/TTLT-BNG-BTP ngày 30/6/2016 của Bộ Ngoại giao, Bộ Tư pháp hướng dẫn việc đăng ký và quản lý hộ tịch tại cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan đại diện lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài thì thẩm quyền đăng ký khai tử cho công dân Việt Nam chết ở nước ngoài thuộc cơ quan đại diện ở khu vực lãnh sự nơi cư trú cuối cùng của người chết, tuy nhiên, trên thực tế, nhiều trường hợp gia đình của người chết không đăng ký khai tử tại cơ quan đại diện có thẩm quyền mà mang tro cốt/đưa thi hài về Việt Nam và yêu cầu đăng ký khai tử tại cơ quan đăng ký hộ tịch trong nước. Đối với những trường hợp này, để bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người dân, Ủy ban nhân dân cấp xã - nơi cư trú cuối cùng của người chết vận dụng quy định tại Mục 7 Chương II Luật Hộ tịch năm 2014, khoản 2 Điều 4 Nghị định số 123/2015/NĐ-CP thực hiện đăng ký khai tử.

4. Giải quyết các việc hộ tịch khác

4.1. Ghi vào sổ hộ tịch việc thay đổi hộ tịch của cá nhân theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền

Thực tiễn cho thấy, một số trường hợp đã được Chủ tịch nước cho thôi quốc tịch Việt Nam nhưng vẫn sử dụng giấy khai sinh, hộ chiếu, chứng minh nhân dân… để chứng minh quốc tịch Việt Nam trong các giao dịch dân sự... Việc này đã gây không ít khó khăn cho công tác quản lý, cũng như ảnh hưởng đến lợi ích hợp pháp của người có liên quan. Để khắc phục tình trạng này, Nghị định số 16/2020/NĐ-CP ngày 03/02/2020 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Quốc tịch Việt Nam (Nghị định số 16/2020/NĐ-CP) đã có quy định về việc hủy giá trị giấy tờ chứng minh quốc tịch Việt Nam đã cấp cho người thôi quốc tịch, tước quốc tịch, hủy bỏ quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam (Điều 4), đồng thời quy định đầy đủ hơn về trách nhiệm thông báo kết quả giải quyết về quốc tịch.

Trách nhiệm thông báo, ghi chú vào sổ hộ tịch việc thay đổi quốc tịch được quy định tại Điều 25 Nghị định số 16/2020/NĐ-CP.

Khi nhận được thông báo ghi chú vào sổ hộ tịch việc thay đổi quốc tịch, trường hợp sổ hộ tịch được lưu trữ tại hai cấp thì cơ quan đăng ký hộ tịch ghi vào sổ hộ tịch và thông báo tiếp cho cơ quan đang lưu trữ sổ hộ tịch còn lại để ghi vào sổ hộ tịch, bảo đảm cập nhật đồng bộ. Trường hợp cơ quan đã đăng ký hộ tịch không còn lưu giữ sổ thì vẫn phải thống kê, lập danh sách theo dõi để thực hiện việc đăng ký lại khai sinh đúng theo quy định khi có yêu cầu.

4.2. Đăng ký lại khai sinh/đăng ký khai sinh cho người đã có hồ sơ giấy tờ cá nhân là công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài

Theo quy định tại khoản 4, khoản 5 Điều 26 Nghị định số 123/2015/NĐ-CP thì trường hợp người yêu cầu đăng ký lại khai sinh có bản sao giấy khai sinh trước đây được cấp hợp lệ thì nội dung ĐKKS được ghi theo nội dung bản sao giấy khai sinh; phần khai về cha, mẹ được ghi theo thời điểm đăng ký lại khai sinh. Trường hợp người yêu cầu không có bản sao giấy khai sinh nhưng hồ sơ, giấy tờ cá nhân có sự thống nhất về nội dung khai sinh thì đăng ký lại theo nội dung đó. Nếu hồ sơ, giấy tờ không thống nhất về nội dung khai sinh thì nội dung khai sinh được xác định theo hồ sơ, giấy tờ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp chính thức hợp lệ đầu tiên.

Đồng thời, Điều 9 Thông tư số 04/2020/TT-BTP cũng quy định cụ thể các giấy tờ, tài liệu là cơ sở đăng ký lại khai sinh.

Khi đăng ký lại khai sinh có yếu tố nước ngoài, cần lưu ý quy định tại Điều 10 Thông tư số 04/2020/TT-BTP, theo đó, nếu hiện tại, thông tin về cha, mẹ, bản thân người yêu cầu đăng ký lại khai sinh có thay đổi so với trước đây thì người đó có trách nhiệm xuất trình giấy tờ chứng minh việc thay đổi. Nếu việc thay đổi thông tin là phù hợp với quy định pháp luật thì nội dung đăng ký lại khai sinh được xác định theo thông tin thay đổi; nội dung thông tin trước khi thay đổi được ghi vào mặt sau của giấy khai sinh và mục “Ghi chú” trong sổ ĐKKS.

Trường hợp người yêu cầu đăng ký lại khai sinh chỉ xuất trình giấy tờ chứng minh có quốc tịch nước ngoài thì trong giấy khai sinh chỉ ghi quốc tịch nước ngoài. Tuy nhiên, đối với trường hợp này, người yêu cầu cũng phải có hồ sơ, giấy tờ cá nhân: Giấy tờ tùy thân quy định tại khoản 1 Điều 2 Nghị định số 123/2015/NĐ-CP; sổ hộ khẩu; sổ tạm trú; giấy tờ khác do cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam cấp, trong đó ghi nơi sinh tại Việt Nam.

4.3. Bổ sung thông tin quốc tịch trong giấy tờ hộ tịch

Khoản 13 Điều 4 Luật Hộ tịch năm 2014 quy định: Bổ sung hộ tịch là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền cập nhật thông tin hộ tịch còn thiếu cho cá nhân đã được đăng ký.

Thực tế cho thấy, có những trường hợp, do chưa có cơ sở để xác định tại thời điểm đăng ký nên một số thông tin hộ tịch của cá nhân (như dân tộc, quốc tịch, quê quán…) được để trống. Luật Hộ tịch năm 2014 quy định khi người dân có yêu cầu và có cơ sở chứng minh thì cơ quan đăng ký hộ tịch sẽ thực hiện bổ sung nội dung tương ứng vào sổ hộ tịch và giấy tờ hộ tịch.

Tuy nhiên, đối với yêu cầu ghi “bổ sung thông tin quốc tịch” vào giấy khai sinh, công chức làm công tác hộ tịch cần lưu ý: Chỉ được thực hiện đối với giấy tờ hộ tịch đã cấp cho công dân Việt Nam kể từ ngày 01/01/2016, sau khi có căn cứ để xác định người yêu cầu đang có quốc tịch Việt Nam (khoản 2 Điều 18 Thông tư số 04/2020/TT-BTP). Việc xác định cá nhân có quốc tịch Việt Nam phải dựa trên căn cứ theo quy định của Luật Quốc tịch Việt Nam (Điều 14), chứ không chỉ đơn giản dựa trên giấy tờ mà người đó có.

4.4. Quốc tịch của con nuôi chưa thành niên

Quốc tịch của con nuôi chưa thành niên được xác định theo Điều 37 Luật Quốc tịch Việt Nam.

Trần Thị Lệ Hoa
Phó Cục trưởng Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực



[1]. Khoản 1 Điều 36 Luật Hộ tịch năm 2014; khoản 2 Điều 7 Thông tư số 04/2020/TT-BTP ngày 28/5/2020 của Bộ Tư pháp quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hộ tịch và Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch (Thông tư số 04/2020/TT-BTP).

[2]. Điều 7 Thông tư số 04/2020/TT-BTP.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Bài viết phân tích vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước.
Thay thế hồ sơ giấy bằng dữ liệu điện tử từ ngày 01/01/2026

Thay thế hồ sơ giấy bằng dữ liệu điện tử từ ngày 01/01/2026

Ngày 15/11/2025, theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 66.7/2025/NQ-CP quy định cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính dựa trên dữ liệu (Nghị quyết số 66.7/2025/NQ-CP). Nghị quyết số 66.7/2025/NQ-CP là một trong những văn bản được ban hành theo cơ chế đặc biệt xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật tại Nghị quyết số 206/2025/QH15 của Quốc hội ngày 24/6/2025.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: “Cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính dựa trên dữ liệu là giải pháp căn cơ, toàn diện”

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: “Cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính dựa trên dữ liệu là giải pháp căn cơ, toàn diện”

Trao đổi với báo chí, Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh nhấn mạnh: Việc cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính (TTHC) dựa trên dữ liệu không chỉ nhằm tinh gọn quy trình, giảm thiểu chi phí xã hội mà còn là giải pháp căn cơ để xây dựng nền hành chính phục vụ, hiện đại, minh bạch. Đây cũng là nhiệm vụ trọng tâm trong triển khai chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm, Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.
Bổ trợ tư pháp Việt Nam: Kiến tạo niềm tin và hành trình phát triển

Bổ trợ tư pháp Việt Nam: Kiến tạo niềm tin và hành trình phát triển

Sự phát triển của hoạt động bổ trợ tư pháp là một hành trình có tính lịch sử, gắn liền và phản ánh tầm nhìn, sự chủ động của ngành Tư pháp Việt Nam qua từng giai đoạn, từ bối cảnh đất nước mới giành độc lập đến công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế.
Kết quả đạt được và những đóng góp của công tác lý lịch tư pháp trong công cuộc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Kết quả đạt được và những đóng góp của công tác lý lịch tư pháp trong công cuộc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Trong quá trình gần 15 năm (2010 - 2025) thực hiện, công tác lý lịch tư pháp đã đạt được nhiều kết quả tích cực, góp phần quan trọng trong công cuộc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Kiện toàn tổ chức bộ máy và phát triển nhân lực Bộ, ngành Tư pháp đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Kiện toàn tổ chức bộ máy và phát triển nhân lực Bộ, ngành Tư pháp đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Giai đoạn 2015 - 2025, công tác tổ chức bộ máy, cán bộ của Bộ, ngành Tư pháp có bước phát triển toàn diện cả về số lượng và chất lượng, nhân tố quyết định việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của Bộ, ngành Tư pháp được Đảng, Nhà nước giao.
Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thi đua, khen thưởng của Bộ, ngành Tư pháp tạo động lực thúc đẩy các tập thể, cá nhân hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao

Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thi đua, khen thưởng của Bộ, ngành Tư pháp tạo động lực thúc đẩy các tập thể, cá nhân hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao

Trong suốt 80 năm xây dựng và phát triển, kể từ ngày thành lập cho đến nay, ngành Tư pháp luôn quán triệt, vận dụng sâu sắc lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Thi đua là yêu nước, yêu nước thì phải thi đua và những người thi đua là những người yêu nước nhất”. Thấm nhuần lời dạy của Người, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, Bộ, ngành Tư pháp đã thường xuyên đổi mới nội dung, hình thức tổ chức và đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước trên tất cả các lĩnh vực hoạt động, tạo động lực để cá nhân, tập thể trong toàn Ngành vượt qua khó khăn, thử thách, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị được Đảng, Nhà nước giao, đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước bằng pháp luật, góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức và phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật thuộc lĩnh vực dân sự - kinh tế, quản lý nhà nước trong công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa - thành tựu và yêu cầu đặt ra trong kỷ nguyên mới

Công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật thuộc lĩnh vực dân sự - kinh tế, quản lý nhà nước trong công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa - thành tựu và yêu cầu đặt ra trong kỷ nguyên mới

Trong bối cảnh mới, để thực hiện nhiệm vụ được giao, lĩnh vực pháp luật dân sự - kinh tế cần định hướng cải cách sâu sắc, trong đó, nổi bật là tư duy đổi mới toàn diện về cách xây dựng và thực thi pháp luật. Mục tiêu xây dựng hệ thống pháp luật lấy người dân và doanh nghiệp làm trung tâm. Pháp luật phải trở nên dễ hiểu, dễ tiếp cận, dễ tuân thủ; ngôn ngữ luật cần đơn giản hơn, thủ tục pháp lý cần được số hóa mạnh mẽ và các dịch vụ hỗ trợ pháp lý cần phổ cập rộng rãi.
Công bố thủ tục hành chính được sửa đổi, bổ sung; thủ tục hành chính bị bãi bỏ trong lĩnh vực quản tài viên và hành nghề quản lý, thanh lý tài sản thuộc phạm vi chức năng quản lý của Bộ Tư pháp

Công bố thủ tục hành chính được sửa đổi, bổ sung; thủ tục hành chính bị bãi bỏ trong lĩnh vực quản tài viên và hành nghề quản lý, thanh lý tài sản thuộc phạm vi chức năng quản lý của Bộ Tư pháp

Ngày 23/6/2025, Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Quyết định số 1858/QĐ-BTP về việc công bố thủ tục hành chính được sửa đổi, bổ sung; thủ tục hành chính bị bãi bỏ trong lĩnh vực quản tài viên và hành nghề quản lý, thanh lý tài sản thuộc phạm vi chức năng quản lý của Bộ Tư pháp.
Công bố thủ tục hành chính được sửa đổi, bổ sung trong lĩnh vực thừa phát lại thuộc phạm vi chức năng quản lý của Bộ Tư pháp

Công bố thủ tục hành chính được sửa đổi, bổ sung trong lĩnh vực thừa phát lại thuộc phạm vi chức năng quản lý của Bộ Tư pháp

Ngày 23/6/2025, Bộ Tư pháp ban hành Quyết định số 1836/QĐ-BTP về việc công bố thủ tục hành chính được sửa đổi, bổ sung trong lĩnh vực thừa phát lại thuộc phạm vi chức năng quản lý của Bộ Tư pháp.
Công bố thủ tục hành chính mới ban hành, thủ tục hành chính bị bãi bỏ trong lĩnh vực công chứng thuộc phạm vi chức năng quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Công bố thủ tục hành chính mới ban hành, thủ tục hành chính bị bãi bỏ trong lĩnh vực công chứng thuộc phạm vi chức năng quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 23/6/2025, Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Quyết định số 1859/QĐ-BTP về việc công bố thủ tục hành chính mới ban hành, thủ tục hành chính bị bãi bỏ trong lĩnh vực công chứng thuộc phạm vi chức năng quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
Công bố thủ tục hành chính trong lĩnh vực chứng thực thuộc phạm vi chức năng quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Công bố thủ tục hành chính trong lĩnh vực chứng thực thuộc phạm vi chức năng quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 23/6/2025, Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Quyết định số 1857/QĐ-BTP về việc công bố thủ tục hành chính trong lĩnh vực chứng thực thuộc phạm vi chức năng quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.

Giải trừ trách nhiệm của công chức thuế, tạo thuận lợi giải quyết hoàn thuế cho doanh nghiệp

Luật số 56/2024/QH15 bổ sung quy định về trách nhiệm của công chức thuế theo hướng giải trừ trách nhiệm cho công chức thuế khi có gian lận trong kê khai, cung cấp thông tin tạo thuận lợi giải quyết hoàn thuế cho doanh nghiệp chân chính.

Cải cách thủ tục hành chính cấp Phiếu lý lịch tư pháp tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tại thành phố Hải Phòng

Hải Phòng là địa phương luôn nỗ lực, tích cực thực hiện cải cách thủ tục hành chính, với mục tiêu tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp, trong đó phải kể đến lĩnh vực cấp Phiếu lý lịch tư pháp. Điều này được thể hiện rõ nét qua sự quyết tâm, chủ động, sáng tạo trong triển khai, thực hiện các văn bản, quy định nhằm cải cách thủ tục hành chính cấp Phiếu lý lịch tư pháp.

Pháp luật quốc tế về bảo vệ quyền riêng tư của cá nhân trong bối cảnh chuyển đổi số và những khuyến nghị cho Việt Nam

Bài viết bàn về những vấn đề cơ bản của quyền riêng tư và sự cần thiết phải bảo vệ quyền riêng tư; phân tích các vấn đề pháp lý về bảo vệ quyền riêng tư của cá nhân theo pháp luật quốc tế, từ đó đúc kết và đưa ra những khuyến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực này tại Việt Nam trong bối cảnh chuyển đổi số.

Theo dõi chúng tôi trên: