Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước được xây dựng và ban hành nhằm thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng, xây dựng và hoàn thiện cơ bản khuôn khổ pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước. Từ đó, thiết lập cơ chế pháp lý minh bạch, khả thi bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức bị thiệt hại phù hợp với quy định về quyền con người, quyền cơ bản của công dân trong Hiến pháp qua các thời kỳ, từng bước nâng cao hiệu lực, hiệu quả nền công vụ, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thông qua bài viết, tác giả nêu ra mục tiêu xây dựng Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, kết quả giải quyết bồi thường nhà nước qua các giai đoạn, đồng thời định hướng tổ chức và hoàn thiện các quy định về giải quyết yêu cầu bồi thường nhà nước trong thời gian tới.
1. Mục tiêu xây dựng Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
Thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 về nội dung: “Hoàn thiện chế độ bảo hộ của Nhà nước đối với các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân… khẩn trương ban hành Luật về bồi thường nhà nước”, ngày 18/6/2009, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (Luật năm 2009) đã được Quốc hội thông qua và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2010. Luật năm 2009 ra đời đã tạo điều kiện thực hiện việc giải quyết bồi thường kịp thời, bảo đảm lợi ích của Nhà nước và đáp ứng được yêu cầu bồi thường của người dân, tổ chức khi bị xâm hại bởi các hành vi vi phạm pháp luật của người thi hành công vụ trong cả ba lĩnh vực hành chính, tố tụng và thi hành án. Sau 07 năm thi hành, để phù hợp yêu cầu bảo đảm, bảo vệ quyền con người trong Hiến pháp năm 2013, với tình hình kinh tế - xã hội và hoàn thiện của hệ thống pháp luật, cải cách tư pháp, cải cách hành chính, ngày 20/6/2017, Quốc hội thông qua Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 (Luật năm 2017) có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2018. Luật năm 2017 có nhiều điểm mới quan trọng, bảo đảm quyền yêu cầu bồi thường của người bị thiệt hại về phạm vi, thời hiệu, trình tự, thủ tục giải quyết bồi thường. Đồng thời, quy định về trách nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ được sửa đổi, bổ sung toàn diện theo hướng quy định cụ thể, nâng mức hoàn trả của người thi hành công vụ gây thiệt hại phù hợp với nhiệm vụ trong văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng về tăng cường trách nhiệm, kỷ luật, kỷ cương trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ.
Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước được xây dựng và ban hành nhằm thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng về xây dựng và hoàn thiện cơ bản khuôn khổ pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước. Từ đó, thiết lập cơ chế pháp lý minh bạch, khả thi bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức bị thiệt hại phù hợp với quy định về quyền con người, quyền cơ bản của công dân trong Hiến pháp từng bước nâng cao hiệu lực, hiệu quả nền công vụ, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
1.1. Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại
Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước ra đời đã thiết lập cơ chế thuận lợi, khả thi để người bị thiệt hại do hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra thực hiện quyền yêu cầu bồi thường của mình với một số lý do sau:
Thứ nhất, Luật năm 2009 là văn bản đầu tiên ở tầm văn bản luật quy định cơ bản đầy đủ và toàn diện về các vấn đề có liên quan đến trách nhiệm bồi thường của Nhà nước. Trước khi Luật năm 2009 ban hành, pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước còn phân tán, thiếu tính cụ thể, không có tính hệ thống và hiệu lực pháp lý của văn bản điều chỉnh trực tiếp có giá trị thấp. Những văn bản điều chỉnh trực tiếp về phạm vi, trình tự, thủ tục đều là những văn bản dưới luật (Nghị quyết số 388/2003/NQ-UBTVQH11 ngày 17/3/2003 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra (Nghị quyết số 388), Thông tư liên tịch số 01/2004/TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC-BTP-BQP-BTC ngày 25/3/2004 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành một số quy định của Nghị quyết số 388 được thay bằng Thông tư liên tịch số 04/2006/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BQP-BTC ngày 22/11/2006 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành một số quy định của Nghị quyết số 388 (Thông tư liên tịch số 04/2006/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BQP-BTC)… Luật năm 2009 được ban hành đã kế thừa phần lớn các quy định về phạm vi trách nhiệm bồi thường trong hoạt động tố tụng hình sự tại Nghị quyết số 388 và mở rộng thêm phạm vi trách nhiệm bồi thường trong hoạt động tố tụng hình sự theo hướng pháp điển hóa các quy định của Thông tư liên tịch số 04/2006/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BQP-BTC. Tương tự như vậy, Luật năm 2017 đã kế thừa và phát huy những quy định của Luật năm 2009, pháp điển hóa những quy định tiến bộ trong các văn bản hướng dẫn thi hành và sửa đổi, bổ sung một số nội dung còn hạn chế, bất cập.
Thứ hai, Luật đã nhất thể hóa pháp luật về bồi thường thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra, khắc phục tình trạng tồn tại hai mặt bằng pháp lý về bồi thường thiệt hại trong hoạt động hành chính và tố tụng hình sự ở các văn bản quy phạm pháp luật trước đó (việc giải quyết bồi thường trong hoạt động tố tụng hình sự được thực hiện theo Nghị quyết số 388, trong hoạt động hành chính được thực hiện theo Nghị định số 47/CP ngày 03/5/1997 của Chính phủ về việc giải quyết bồi thường thiệt hại do công chức, viên chức nhà nước, người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra (Nghị định số 47/CP)). Thông qua việc nhất thể hóa pháp luật, quy định chung về thủ tục giải quyết yêu cầu bồi thường trong các lĩnh vực khác nhau, xác định cơ chế giải quyết bồi thường và cơ quan quản lý nhà nước về công tác bồi thường, Luật đã tạo điều kiện tốt hơn cho người dân trong việc thực hiện quyền yêu cầu bồi thường của mình.
Thứ ba, Luật đã quy định rõ nhiều nội dung về phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, thủ tục giải quyết yêu cầu bồi thường, các loại thiệt hại được bồi thường, việc phân cấp trong sử dụng ngân sách nhà nước trong bồi thường thiệt hại, trách nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ đã gây ra thiệt hại, quản lý nhà nước về bồi thường và nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan trong việc thực hiện quản lý nhà nước về công tác bồi thường, hỗ trợ, hướng dẫn người bị thiệt hại thực hiện thủ tục yêu cầu bồi thường và nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan có thẩm quyền trong việc thực hiện nhiệm vụ hỗ trợ, hướng dẫn. Các quy định này đã góp phần tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người bị thiệt hại thực hiện quyền yêu cầu bồi thường của mình.
1.2. Bảo đảm sự hoạt động ổn định, hiệu quả của hoạt động công vụ
Cơ chế trách nhiệm bồi thường của Nhà nước có sự tham gia của ba chủ thể: (i) Người thi hành công vụ gây ra thiệt hại; (ii) Người bị thiệt hại; (iii) Nhà nước. Trong cơ chế trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, Nhà nước là chủ thể bồi thường thay thế cho người thi hành công vụ gây thiệt hại. Cán bộ, công chức được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một vị trí công vụ, có chức năng, nhiệm vụ nhất định và được Nhà nước bảo đảm các điều kiện cần thiết để hoàn thành công vụ của mình. Trường hợp người thi hành công vụ gây ra thiệt hại đối với tổ chức, cá nhân thì Nhà nước sẽ đảm nhận trách nhiệm bồi thường, tạo điều kiện ổn định để cán bộ, công chức hoàn thành công vụ của mình. Hơn nữa, với địa vị là chủ thể quản lý ngân khố quốc gia, việc Nhà nước thực hiện trách nhiệm của bên bồi thường sẽ tạo thuận lợi cho việc thực hiện nghĩa vụ chi trả tiền bồi thường vì Nhà nước có năng lực tài chính rộng lớn hơn rất nhiều so với cá nhân cán bộ, công chức.
Với những quy định như vậy, về phương diện pháp lý, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đã góp phần duy trì sự ổn định và hiệu quả của hoạt động công vụ đối với cơ quan nhà nước trong khi bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại.
1.3. Ngăn ngừa sự lạm dụng quyền lực nhà nước và nâng cao trách nhiệm công vụ
Nhà nước với tư cách là chủ thể duy nhất có quyền quản lý, điều hành xã hội thông qua quyền lực được pháp luật quy định, do đó, không tránh khỏi có xu hướng lạm dụng quyền lực. Sự lạm dụng có nhiều biểu hiện cụ thể, song về hình thức thường là sự vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức trong quá trình thực thi quyền lực được Nhà nước giao. Trường hợp cán bộ, công chức có lỗi vô ý hoặc cố ý gây ra thiệt hại đối với tổ chức, cá nhân trong khi thi hành công vụ thì Luật đã xác định có nghĩa vụ hoàn trả cho ngân sách nhà nước một khoản tiền mà Nhà nước đã bồi thường cho người bị thiệt hại. Theo đó, Luật quy định cơ bản đầy đủ về nghĩa vụ hoàn trả, căn cứ xác định mức hoàn trả, trình tự, thủ tục quyết định việc hoàn trả, thực hiện việc hoàn của người thi hành công vụ gây ra thiệt hại.
Chính vì vậy, pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước là một cơ chế hiệu quả trong số các phương pháp có thể hạn chế, ngăn ngừa sự lạm dụng quyền lực của Nhà nước, góp phần tăng cường trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, công chức trong quá trình thi hành công vụ.
1.4. Giúp củng cố lòng tin của người dân vào Đảng và Nhà nước
Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đã thể chế hóa đầy đủ các nghị quyết của Đảng về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Theo đó, trách nhiệm bồi thường của Nhà nước là một biểu hiện của Nhà nước pháp quyền, bảo đảm nguyên tắc tối thượng của pháp luật, thể hiện qua việc Nhà nước và công dân bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. Trước pháp luật, Nhà nước có trách nhiệm tuân thủ như mọi chủ thể khác. Mọi hành vi xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức đều bị xử lý và phải chịu chế tài theo quy định của pháp luật mà không có sự phân biệt chủ thể thực hiện hành vi trái pháp luật là cá nhân, tổ chức hay Nhà nước.
Với đặc điểm nêu trên, về phương diện chính trị, việc xây dựng và hoàn hiện hệ thống pháp luật và cơ chế thực thi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước là công cụ hữu hiệu để vừa thực hiện quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, vừa tăng cường trách nhiệm, kỷ luật, kỷ cương của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, qua đó, góp phần nâng cao uy tín của Đảng và Nhà nước trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
2. Kết quả giải quyết bồi thường nhà nước qua các giai đoạn
2.1. Giai đoạn trước khi ban hành Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009
Tổng kết thực tiễn cho thấy, Nghị định số 47/CP hầu như không phát huy tác dụng, chưa được áp dụng để giải quyết bồi thường thiệt hại trong các lĩnh vực tố tụng hình sự, dân sự và hành chính. Trong hoạt động quản lý hành chính, kết quả thi hành Nghị định này cũng rất hạn chế. Tổng hợp báo cáo của các bộ, ngành và địa phương cho thấy: Việc giải quyết bồi thường của các cơ quan hành chính nhà nước chủ yếu được thực hiện gắn với thủ tục giải quyết khiếu nại hành chính mà không trực tiếp áp dụng Nghị định số 47/CP; số lượng vụ việc được giải quyết bồi thường không tương xứng so với yêu cầu thực tế, cụ thể trong khoảng thời gian từ năm 1997 đến 2007, có khoảng 170 vụ việc được giải quyết, với số tiền bồi thường là hơn 16 tỷ đồng; một số bộ, ngành, địa phương chưa có trường hợp nào áp dụng Nghị định số 47/CP để giải quyết yêu cầu bồi thường. Đối với bồi thường thiệt hại cho các trường hợp bị oan trong tố tụng hình sự theo quy định của Nghị quyết số 388, tính đến hết năm 2007 (sau 04 năm thi hành), các cơ quan tiến hành tố tụng đã giải quyết được gần 200 vụ, với số tiền phải bồi thường là gần 15 tỷ đồng. Việc ban hành Nghị quyết này đã được dư luận nhân dân ủng hộ và đồng tình cao. Tuy nhiên, do phạm vi điều chỉnh hẹp (chỉ bồi thường cho các trường hợp bị oan trong tố tụng hình sự), cho nên, tác động của Nghị quyết này còn hạn chế[1].
2.2. Giai đoạn sau khi có Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 đến nay
Từ 01/01/2010 đến 31/12/2020, sau 10 năm Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước được thực hiện, theo báo cáo của các cơ quan có trách nhiệm bồi thường, cả nước đã thụ lý, giải quyết tổng số 478 vụ việc, trong đó, đã giải quyết xong 421 vụ việc, với tổng số tiền Nhà nước phải bồi thường được xác định trong các quyết định giải quyết bồi thường, bản án, quyết định của Tòa án giải quyết các vụ án dân sự về bồi thường nhà nước có hiệu lực pháp luật là 225.386.506.000 đồng. Việc xem xét trách nhiệm hoàn trả đã thực hiện đối với 52 vụ việc với tổng số tiền là 2.071.928.000 đồng. Cụ thể kết quả giải quyết bồi thường nhà nước như sau:
- Kết quả giải quyết bồi thường nhà nước theo Luật năm 2009 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2010): Đã thụ lý, giải quyết tổng số 403 vụ việc, trong đó, đã giải quyết xong 379 vụ việc, với tổng số tiền Nhà nước phải bồi thường là 199.131.138.000 đồng. Việc xem xét trách nhiệm hoàn trả đã thực hiện đối với 42 vụ việc, với tổng số tiền là 1.066.560.000 đồng.
- Kết quả giải quyết bồi thường nhà nước theo Luật năm 2017 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2018 đến nay): Đã thụ lý, giải quyết tổng số 75 vụ việc, đã giải quyết xong 42 vụ việc với tổng số tiền Nhà nước phải bồi thường là 26.255.368.000 đồng, xem xét trách nhiệm hoàn trả đã thực hiện đối với 10 vụ việc với tổng số tiền là 1.005.368.000 đồng).
2.3. Nhận xét, so sánh về kết quả giải quyết bồi thường
Từ kết quả giải quyết bồi thường trên, có thể nhận thấy:
- Trước khi có Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước: Trung bình 01 năm có 37 vụ việc được giải quyết với số tiền bồi thường trung bình trên 01 vụ việc là khoảng 83 triệu đồng.
- Sau khi có Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước: Trung bình 01 năm có 42,1 vụ việc được giải quyết với số tiền bồi thường trung bình trên 01 vụ việc là khoảng 535 triệu đồng.
Như vậy, sau khi Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước được thực hiện thì số vụ việc trung bình được giải quyết hàng năm nhiều hơn (1,1 lần) trước khi ban hành Luật và gấp hơn 6,4 lần về số tiền bồi thường trung bình trên 01 vụ việc. Đồng thời, sau khi Luật có hiệu lực, việc xem xét trách nhiệm hoàn trả đã thực hiện đối với 52 vụ việc với tổng số tiền là 2.071.928.000 đồng. Trong khi đó, việc thực hiện trách nhiệm hoàn trả hầu như không được thực hiện trong giai đoạn trước khi ban hành Luật.
Như vậy, so với mục tiêu ban hành Luật thì Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước ra đời đã góp phần bảo đảm hơn quyền, lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại trong bối cảnh trình độ phát triển kinh tế - xã hội của nước ta trong giai đoạn hiện nay; đáp ứng yêu cầu nâng cao nhận thức và trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức trong thực thi công vụ, qua đó, góp phần ngăn ngừa sự lạm dụng quyền lực nhà nước, giúp củng cố lòng tin của người dân và Đảng và Nhà nước.
3. Định hướng tổ chức và hoàn thiện các quy định về giải quyết yêu cầu bồi thường nhà nước trong thời gian tới
Luật năm 2017 đã có hiệu lực thi hành được gần 03 năm với nhiều kết quả tích cực. Để thúc đẩy việc giải quyết yêu cầu bồi thường nhà nước hiệu quả, bảo đảm tốt hơn quyền, lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại và lợi ích của Nhà nước, trong thời gian tới hoạt động giải quyết bồi thường cần được thực hiện theo một số định hướng sau:
Thứ nhất, khẩn trương giải quyết các vụ, việc yêu cầu bồi thường, theo chỉ đạo tại khoản 15 Điều 2 Nghị quyết số 134/2020/QH14 ngày 17/11/2020 của Quốc hội khóa XIV về tiếp tục thực hiện các nghị quyết của Quốc hội về giám sát chuyên đề, chất vấn trong nhiệm kỳ khóa XIV và một số nghị quyết trong nhiệm kỳ khóa XIII. Sau 10 thi hành Luật, hiện nay còn 57 vụ việc đang giải quyết (trong đó có 24 vụ việc đang giải quyết theo Luật năm 2009 và 33 vụ việc đang giải quyết theo Luật năm 2017). Để khẩn trương giải quyết dứt điểm các vụ việc này, đòi hỏi sự quan tâm của các cơ quan giải quyết bồi thường và việc theo dõi, đôn đốc, kiểm tra, phối hợp kịp thời của cơ quan quản lý nhà nước về công tác bồi thường nhà nước, cơ quan quản lý cấp trên trong ngành và các cơ quan liên quan. Bởi lẽ, những vụ việc kéo dài là những vụ việc phức tạp về thiệt hại, có liên quan đến nhiều cơ quan trong các lĩnh vực khác nhau hoặc vướng mắc về các quy định để giải quyết.
Thứ hai, tiếp tục bảo đảm việc tổ chức thực hiện đúng các quy định của Luật năm 2017 về giải quyết yêu cầu bồi thường, đặc biệt là các quy định liên quan đến điều kiện thụ lý vụ việc yêu cầu bồi thường, xác định thiệt hại được bồi thường, án phí, lệ phí và các loại phí khác đối với nội dung yêu cầu bồi thường. Thực hiện nghiêm các quy định về trách nhiệm gửi các văn bản trong quá trình giải quyết bồi thường và xem xét trách nhiệm hoàn trả cho cơ quan quản lý nhà nước về công tác bồi thường (ở trung ương qua đầu mối là Cục Bồi thường nhà nước, Bộ Tư pháp; ở địa phương qua đầu mối là Sở Tư pháp).
Thứ ba, tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về công tác bồi thường nhà nước nói chung và hoạt động giải quyết bồi thường nói riêng theo Luật năm 2017. Thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 01/01/2021 của Chính phủ về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và Dự toán ngân sách nhà nước năm 2021 (Nghị quyết số 01/NQ-CP) về tăng cường kỷ cương, nâng cao hiệu quả trong công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật gắn với thực thi nghiêm pháp luật[2], Quyết định số 71/QĐ-BTP ngày 19/01/2021 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Chương trình hành động của Ngành Tư pháp thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP và Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 01/01/2021 của Chính phủ về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2021 đã đề ra nhiệm vụ chủ yếu của Bộ Tư pháp là tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về công tác bồi thường nhà nước (đồng thời, giao Cục Bồi thường nhà nước bảo đảm thi hành hiệu quả Luật năm 2017 và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành; phối hợp với Tòa án, Viện kiểm sát, các bộ, ngành ở trung ương và địa phương trong thực hiện quản lý nhà nước về công tác bồi thường và trong phối hợp giải quyết các vụ việc tồn đọng, kéo dài, các vụ việc đã thụ lý trong năm 2020[3]). Để tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về công tác bồi thường nhà nước theo Luật năm 2017, cần tập trung vào một số nội dung như:
- Tăng cường hoạt động phối hợp giữa Bộ Tư pháp với Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và một số bộ, ngành trong việc thực hiện quản lý nhà nước về công tác bồi thường nhà nước tại trung ương để theo dõi, chỉ đạo việc giải quyết bồi thường hiệu quả, kịp thời tháo gỡ và đưa ra các giải pháp thực hiện đối với các vụ việc phức tạp, kéo dài cần sự thống nhất của liên ngành.
- Tăng cường hoạt động phối hợp giữa Sở Tư pháp với và một số sở, ngành trong việc thực hiện quản lý nhà nước về công tác bồi thường nhà nước tại địa phương, đặc biệt liên quan đến việc tham gia hoạt động giải quyết bồi thường của cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại trong giai đoạn xác minh thiệt hại và thương lượng giải quyết bồi thường; theo dõi, đôn đốc việc giải quyết bồi thường hiệu quả, kịp thời tháo gỡ và đưa ra các giải pháp thực hiện đối với các vụ việc phức tạp, kéo dài cần sự thống nhất của liên ngành tại địa phương.
- Nâng cao nhận thức pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, chú trọng phổ biến các quy định pháp luật liên quan trực tiếp đến quyền con người, quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân, trình tự, thủ tục, kỹ năng trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp và thực hiện nghĩa vụ trong quá trình thực hiện quyền yêu cầu bồi thường cho các đối tượng là cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp.
- Tăng cường hỗ trợ cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp thực hiện quyền yêu cầu bồi thường theo quy định của Luật năm 2017.
Thứ tư, tiếp tục nghiên cứu, xây dựng hoàn thiện Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước về giải quyết bồi thường để phù hợp với yêu cầu và tình hình kinh tế - xã hội trong giai đoạn tới. Đến giai đoạn 2021 - 2030, việc nghiên cứu, xây dựng hoàn thiện các quy định của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước về giải quyết bồi thường cần phải được đặt ra để tiếp tục hoàn thiện thể chế về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đáp ứng tình hình kinh tế - xã hội trong 10 năm tới và đáp ứng định hướng, nhiệm vụ trọng tâm phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030 đã được đề ra tại Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng về “xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”, “kiểm soát quyền lực gắn với siết chặt kỷ cương, kỷ luật trong hoạt động của Nhà nước và của cán bộ, công chức, viên chức”; “hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm phát huy mạnh mẽ dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân; đồng thời xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh”[4].
Để nghiên cứu, xây dựng hoàn thiện Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, trong quá trình tổ chức thực hiện Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước cần lưu ý:
- Đánh giá kết quả thực hiện, tập hợp khó khăn, vướng mắc trong quá trình thi hành Luật năm 2017 và đề xuất nâng cao hiệu quả thi hành thể chế về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước;
- Nghiên cứu, hoàn thiện các quy định về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đáp ứng tình hình kinh tế - xã hội trong 10 năm tới và đáp ứng định hướng, nhiệm vụ trọng tâm xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa giai đoạn 2021 - 2030 đã được đề ra tại Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.
[2]. Mục 3 Phần I và điểm a mục 3 Phần II Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 01/01/2021 của Chính phủ về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và Dự toán ngân sách nhà nước năm 2021.
[3]. Quyết định số 71/QĐ-BTP ngày 19/01/2021 của Bộ Tư pháp ban hành Chương trình hành động của Ngành Tư pháp thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 01/01/2021 của Chính phủ về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2021; Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 01/01/2021 của Chính phủ về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2021.
[4]. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.
1. Mục tiêu xây dựng Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
Thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 về nội dung: “Hoàn thiện chế độ bảo hộ của Nhà nước đối với các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân… khẩn trương ban hành Luật về bồi thường nhà nước”, ngày 18/6/2009, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (Luật năm 2009) đã được Quốc hội thông qua và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2010. Luật năm 2009 ra đời đã tạo điều kiện thực hiện việc giải quyết bồi thường kịp thời, bảo đảm lợi ích của Nhà nước và đáp ứng được yêu cầu bồi thường của người dân, tổ chức khi bị xâm hại bởi các hành vi vi phạm pháp luật của người thi hành công vụ trong cả ba lĩnh vực hành chính, tố tụng và thi hành án. Sau 07 năm thi hành, để phù hợp yêu cầu bảo đảm, bảo vệ quyền con người trong Hiến pháp năm 2013, với tình hình kinh tế - xã hội và hoàn thiện của hệ thống pháp luật, cải cách tư pháp, cải cách hành chính, ngày 20/6/2017, Quốc hội thông qua Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 (Luật năm 2017) có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2018. Luật năm 2017 có nhiều điểm mới quan trọng, bảo đảm quyền yêu cầu bồi thường của người bị thiệt hại về phạm vi, thời hiệu, trình tự, thủ tục giải quyết bồi thường. Đồng thời, quy định về trách nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ được sửa đổi, bổ sung toàn diện theo hướng quy định cụ thể, nâng mức hoàn trả của người thi hành công vụ gây thiệt hại phù hợp với nhiệm vụ trong văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng về tăng cường trách nhiệm, kỷ luật, kỷ cương trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ.
Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước được xây dựng và ban hành nhằm thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng về xây dựng và hoàn thiện cơ bản khuôn khổ pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước. Từ đó, thiết lập cơ chế pháp lý minh bạch, khả thi bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức bị thiệt hại phù hợp với quy định về quyền con người, quyền cơ bản của công dân trong Hiến pháp từng bước nâng cao hiệu lực, hiệu quả nền công vụ, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
1.1. Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại
Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước ra đời đã thiết lập cơ chế thuận lợi, khả thi để người bị thiệt hại do hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra thực hiện quyền yêu cầu bồi thường của mình với một số lý do sau:
Thứ nhất, Luật năm 2009 là văn bản đầu tiên ở tầm văn bản luật quy định cơ bản đầy đủ và toàn diện về các vấn đề có liên quan đến trách nhiệm bồi thường của Nhà nước. Trước khi Luật năm 2009 ban hành, pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước còn phân tán, thiếu tính cụ thể, không có tính hệ thống và hiệu lực pháp lý của văn bản điều chỉnh trực tiếp có giá trị thấp. Những văn bản điều chỉnh trực tiếp về phạm vi, trình tự, thủ tục đều là những văn bản dưới luật (Nghị quyết số 388/2003/NQ-UBTVQH11 ngày 17/3/2003 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra (Nghị quyết số 388), Thông tư liên tịch số 01/2004/TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC-BTP-BQP-BTC ngày 25/3/2004 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành một số quy định của Nghị quyết số 388 được thay bằng Thông tư liên tịch số 04/2006/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BQP-BTC ngày 22/11/2006 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành một số quy định của Nghị quyết số 388 (Thông tư liên tịch số 04/2006/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BQP-BTC)… Luật năm 2009 được ban hành đã kế thừa phần lớn các quy định về phạm vi trách nhiệm bồi thường trong hoạt động tố tụng hình sự tại Nghị quyết số 388 và mở rộng thêm phạm vi trách nhiệm bồi thường trong hoạt động tố tụng hình sự theo hướng pháp điển hóa các quy định của Thông tư liên tịch số 04/2006/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BQP-BTC. Tương tự như vậy, Luật năm 2017 đã kế thừa và phát huy những quy định của Luật năm 2009, pháp điển hóa những quy định tiến bộ trong các văn bản hướng dẫn thi hành và sửa đổi, bổ sung một số nội dung còn hạn chế, bất cập.
Thứ hai, Luật đã nhất thể hóa pháp luật về bồi thường thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra, khắc phục tình trạng tồn tại hai mặt bằng pháp lý về bồi thường thiệt hại trong hoạt động hành chính và tố tụng hình sự ở các văn bản quy phạm pháp luật trước đó (việc giải quyết bồi thường trong hoạt động tố tụng hình sự được thực hiện theo Nghị quyết số 388, trong hoạt động hành chính được thực hiện theo Nghị định số 47/CP ngày 03/5/1997 của Chính phủ về việc giải quyết bồi thường thiệt hại do công chức, viên chức nhà nước, người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra (Nghị định số 47/CP)). Thông qua việc nhất thể hóa pháp luật, quy định chung về thủ tục giải quyết yêu cầu bồi thường trong các lĩnh vực khác nhau, xác định cơ chế giải quyết bồi thường và cơ quan quản lý nhà nước về công tác bồi thường, Luật đã tạo điều kiện tốt hơn cho người dân trong việc thực hiện quyền yêu cầu bồi thường của mình.
Thứ ba, Luật đã quy định rõ nhiều nội dung về phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, thủ tục giải quyết yêu cầu bồi thường, các loại thiệt hại được bồi thường, việc phân cấp trong sử dụng ngân sách nhà nước trong bồi thường thiệt hại, trách nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ đã gây ra thiệt hại, quản lý nhà nước về bồi thường và nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan trong việc thực hiện quản lý nhà nước về công tác bồi thường, hỗ trợ, hướng dẫn người bị thiệt hại thực hiện thủ tục yêu cầu bồi thường và nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan có thẩm quyền trong việc thực hiện nhiệm vụ hỗ trợ, hướng dẫn. Các quy định này đã góp phần tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người bị thiệt hại thực hiện quyền yêu cầu bồi thường của mình.
1.2. Bảo đảm sự hoạt động ổn định, hiệu quả của hoạt động công vụ
Cơ chế trách nhiệm bồi thường của Nhà nước có sự tham gia của ba chủ thể: (i) Người thi hành công vụ gây ra thiệt hại; (ii) Người bị thiệt hại; (iii) Nhà nước. Trong cơ chế trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, Nhà nước là chủ thể bồi thường thay thế cho người thi hành công vụ gây thiệt hại. Cán bộ, công chức được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một vị trí công vụ, có chức năng, nhiệm vụ nhất định và được Nhà nước bảo đảm các điều kiện cần thiết để hoàn thành công vụ của mình. Trường hợp người thi hành công vụ gây ra thiệt hại đối với tổ chức, cá nhân thì Nhà nước sẽ đảm nhận trách nhiệm bồi thường, tạo điều kiện ổn định để cán bộ, công chức hoàn thành công vụ của mình. Hơn nữa, với địa vị là chủ thể quản lý ngân khố quốc gia, việc Nhà nước thực hiện trách nhiệm của bên bồi thường sẽ tạo thuận lợi cho việc thực hiện nghĩa vụ chi trả tiền bồi thường vì Nhà nước có năng lực tài chính rộng lớn hơn rất nhiều so với cá nhân cán bộ, công chức.
Với những quy định như vậy, về phương diện pháp lý, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đã góp phần duy trì sự ổn định và hiệu quả của hoạt động công vụ đối với cơ quan nhà nước trong khi bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại.
1.3. Ngăn ngừa sự lạm dụng quyền lực nhà nước và nâng cao trách nhiệm công vụ
Nhà nước với tư cách là chủ thể duy nhất có quyền quản lý, điều hành xã hội thông qua quyền lực được pháp luật quy định, do đó, không tránh khỏi có xu hướng lạm dụng quyền lực. Sự lạm dụng có nhiều biểu hiện cụ thể, song về hình thức thường là sự vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức trong quá trình thực thi quyền lực được Nhà nước giao. Trường hợp cán bộ, công chức có lỗi vô ý hoặc cố ý gây ra thiệt hại đối với tổ chức, cá nhân trong khi thi hành công vụ thì Luật đã xác định có nghĩa vụ hoàn trả cho ngân sách nhà nước một khoản tiền mà Nhà nước đã bồi thường cho người bị thiệt hại. Theo đó, Luật quy định cơ bản đầy đủ về nghĩa vụ hoàn trả, căn cứ xác định mức hoàn trả, trình tự, thủ tục quyết định việc hoàn trả, thực hiện việc hoàn của người thi hành công vụ gây ra thiệt hại.
Chính vì vậy, pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước là một cơ chế hiệu quả trong số các phương pháp có thể hạn chế, ngăn ngừa sự lạm dụng quyền lực của Nhà nước, góp phần tăng cường trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, công chức trong quá trình thi hành công vụ.
1.4. Giúp củng cố lòng tin của người dân vào Đảng và Nhà nước
Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đã thể chế hóa đầy đủ các nghị quyết của Đảng về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Theo đó, trách nhiệm bồi thường của Nhà nước là một biểu hiện của Nhà nước pháp quyền, bảo đảm nguyên tắc tối thượng của pháp luật, thể hiện qua việc Nhà nước và công dân bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. Trước pháp luật, Nhà nước có trách nhiệm tuân thủ như mọi chủ thể khác. Mọi hành vi xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức đều bị xử lý và phải chịu chế tài theo quy định của pháp luật mà không có sự phân biệt chủ thể thực hiện hành vi trái pháp luật là cá nhân, tổ chức hay Nhà nước.
Với đặc điểm nêu trên, về phương diện chính trị, việc xây dựng và hoàn hiện hệ thống pháp luật và cơ chế thực thi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước là công cụ hữu hiệu để vừa thực hiện quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, vừa tăng cường trách nhiệm, kỷ luật, kỷ cương của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, qua đó, góp phần nâng cao uy tín của Đảng và Nhà nước trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
2. Kết quả giải quyết bồi thường nhà nước qua các giai đoạn
2.1. Giai đoạn trước khi ban hành Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009
Tổng kết thực tiễn cho thấy, Nghị định số 47/CP hầu như không phát huy tác dụng, chưa được áp dụng để giải quyết bồi thường thiệt hại trong các lĩnh vực tố tụng hình sự, dân sự và hành chính. Trong hoạt động quản lý hành chính, kết quả thi hành Nghị định này cũng rất hạn chế. Tổng hợp báo cáo của các bộ, ngành và địa phương cho thấy: Việc giải quyết bồi thường của các cơ quan hành chính nhà nước chủ yếu được thực hiện gắn với thủ tục giải quyết khiếu nại hành chính mà không trực tiếp áp dụng Nghị định số 47/CP; số lượng vụ việc được giải quyết bồi thường không tương xứng so với yêu cầu thực tế, cụ thể trong khoảng thời gian từ năm 1997 đến 2007, có khoảng 170 vụ việc được giải quyết, với số tiền bồi thường là hơn 16 tỷ đồng; một số bộ, ngành, địa phương chưa có trường hợp nào áp dụng Nghị định số 47/CP để giải quyết yêu cầu bồi thường. Đối với bồi thường thiệt hại cho các trường hợp bị oan trong tố tụng hình sự theo quy định của Nghị quyết số 388, tính đến hết năm 2007 (sau 04 năm thi hành), các cơ quan tiến hành tố tụng đã giải quyết được gần 200 vụ, với số tiền phải bồi thường là gần 15 tỷ đồng. Việc ban hành Nghị quyết này đã được dư luận nhân dân ủng hộ và đồng tình cao. Tuy nhiên, do phạm vi điều chỉnh hẹp (chỉ bồi thường cho các trường hợp bị oan trong tố tụng hình sự), cho nên, tác động của Nghị quyết này còn hạn chế[1].
2.2. Giai đoạn sau khi có Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 đến nay
Từ 01/01/2010 đến 31/12/2020, sau 10 năm Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước được thực hiện, theo báo cáo của các cơ quan có trách nhiệm bồi thường, cả nước đã thụ lý, giải quyết tổng số 478 vụ việc, trong đó, đã giải quyết xong 421 vụ việc, với tổng số tiền Nhà nước phải bồi thường được xác định trong các quyết định giải quyết bồi thường, bản án, quyết định của Tòa án giải quyết các vụ án dân sự về bồi thường nhà nước có hiệu lực pháp luật là 225.386.506.000 đồng. Việc xem xét trách nhiệm hoàn trả đã thực hiện đối với 52 vụ việc với tổng số tiền là 2.071.928.000 đồng. Cụ thể kết quả giải quyết bồi thường nhà nước như sau:
- Kết quả giải quyết bồi thường nhà nước theo Luật năm 2009 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2010): Đã thụ lý, giải quyết tổng số 403 vụ việc, trong đó, đã giải quyết xong 379 vụ việc, với tổng số tiền Nhà nước phải bồi thường là 199.131.138.000 đồng. Việc xem xét trách nhiệm hoàn trả đã thực hiện đối với 42 vụ việc, với tổng số tiền là 1.066.560.000 đồng.
- Kết quả giải quyết bồi thường nhà nước theo Luật năm 2017 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2018 đến nay): Đã thụ lý, giải quyết tổng số 75 vụ việc, đã giải quyết xong 42 vụ việc với tổng số tiền Nhà nước phải bồi thường là 26.255.368.000 đồng, xem xét trách nhiệm hoàn trả đã thực hiện đối với 10 vụ việc với tổng số tiền là 1.005.368.000 đồng).
2.3. Nhận xét, so sánh về kết quả giải quyết bồi thường
Từ kết quả giải quyết bồi thường trên, có thể nhận thấy:
- Trước khi có Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước: Trung bình 01 năm có 37 vụ việc được giải quyết với số tiền bồi thường trung bình trên 01 vụ việc là khoảng 83 triệu đồng.
- Sau khi có Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước: Trung bình 01 năm có 42,1 vụ việc được giải quyết với số tiền bồi thường trung bình trên 01 vụ việc là khoảng 535 triệu đồng.
Như vậy, sau khi Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước được thực hiện thì số vụ việc trung bình được giải quyết hàng năm nhiều hơn (1,1 lần) trước khi ban hành Luật và gấp hơn 6,4 lần về số tiền bồi thường trung bình trên 01 vụ việc. Đồng thời, sau khi Luật có hiệu lực, việc xem xét trách nhiệm hoàn trả đã thực hiện đối với 52 vụ việc với tổng số tiền là 2.071.928.000 đồng. Trong khi đó, việc thực hiện trách nhiệm hoàn trả hầu như không được thực hiện trong giai đoạn trước khi ban hành Luật.
Như vậy, so với mục tiêu ban hành Luật thì Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước ra đời đã góp phần bảo đảm hơn quyền, lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại trong bối cảnh trình độ phát triển kinh tế - xã hội của nước ta trong giai đoạn hiện nay; đáp ứng yêu cầu nâng cao nhận thức và trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức trong thực thi công vụ, qua đó, góp phần ngăn ngừa sự lạm dụng quyền lực nhà nước, giúp củng cố lòng tin của người dân và Đảng và Nhà nước.
3. Định hướng tổ chức và hoàn thiện các quy định về giải quyết yêu cầu bồi thường nhà nước trong thời gian tới
Luật năm 2017 đã có hiệu lực thi hành được gần 03 năm với nhiều kết quả tích cực. Để thúc đẩy việc giải quyết yêu cầu bồi thường nhà nước hiệu quả, bảo đảm tốt hơn quyền, lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại và lợi ích của Nhà nước, trong thời gian tới hoạt động giải quyết bồi thường cần được thực hiện theo một số định hướng sau:
Thứ nhất, khẩn trương giải quyết các vụ, việc yêu cầu bồi thường, theo chỉ đạo tại khoản 15 Điều 2 Nghị quyết số 134/2020/QH14 ngày 17/11/2020 của Quốc hội khóa XIV về tiếp tục thực hiện các nghị quyết của Quốc hội về giám sát chuyên đề, chất vấn trong nhiệm kỳ khóa XIV và một số nghị quyết trong nhiệm kỳ khóa XIII. Sau 10 thi hành Luật, hiện nay còn 57 vụ việc đang giải quyết (trong đó có 24 vụ việc đang giải quyết theo Luật năm 2009 và 33 vụ việc đang giải quyết theo Luật năm 2017). Để khẩn trương giải quyết dứt điểm các vụ việc này, đòi hỏi sự quan tâm của các cơ quan giải quyết bồi thường và việc theo dõi, đôn đốc, kiểm tra, phối hợp kịp thời của cơ quan quản lý nhà nước về công tác bồi thường nhà nước, cơ quan quản lý cấp trên trong ngành và các cơ quan liên quan. Bởi lẽ, những vụ việc kéo dài là những vụ việc phức tạp về thiệt hại, có liên quan đến nhiều cơ quan trong các lĩnh vực khác nhau hoặc vướng mắc về các quy định để giải quyết.
Thứ hai, tiếp tục bảo đảm việc tổ chức thực hiện đúng các quy định của Luật năm 2017 về giải quyết yêu cầu bồi thường, đặc biệt là các quy định liên quan đến điều kiện thụ lý vụ việc yêu cầu bồi thường, xác định thiệt hại được bồi thường, án phí, lệ phí và các loại phí khác đối với nội dung yêu cầu bồi thường. Thực hiện nghiêm các quy định về trách nhiệm gửi các văn bản trong quá trình giải quyết bồi thường và xem xét trách nhiệm hoàn trả cho cơ quan quản lý nhà nước về công tác bồi thường (ở trung ương qua đầu mối là Cục Bồi thường nhà nước, Bộ Tư pháp; ở địa phương qua đầu mối là Sở Tư pháp).
Thứ ba, tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về công tác bồi thường nhà nước nói chung và hoạt động giải quyết bồi thường nói riêng theo Luật năm 2017. Thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 01/01/2021 của Chính phủ về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và Dự toán ngân sách nhà nước năm 2021 (Nghị quyết số 01/NQ-CP) về tăng cường kỷ cương, nâng cao hiệu quả trong công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật gắn với thực thi nghiêm pháp luật[2], Quyết định số 71/QĐ-BTP ngày 19/01/2021 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Chương trình hành động của Ngành Tư pháp thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP và Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 01/01/2021 của Chính phủ về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2021 đã đề ra nhiệm vụ chủ yếu của Bộ Tư pháp là tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về công tác bồi thường nhà nước (đồng thời, giao Cục Bồi thường nhà nước bảo đảm thi hành hiệu quả Luật năm 2017 và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành; phối hợp với Tòa án, Viện kiểm sát, các bộ, ngành ở trung ương và địa phương trong thực hiện quản lý nhà nước về công tác bồi thường và trong phối hợp giải quyết các vụ việc tồn đọng, kéo dài, các vụ việc đã thụ lý trong năm 2020[3]). Để tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về công tác bồi thường nhà nước theo Luật năm 2017, cần tập trung vào một số nội dung như:
- Tăng cường hoạt động phối hợp giữa Bộ Tư pháp với Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và một số bộ, ngành trong việc thực hiện quản lý nhà nước về công tác bồi thường nhà nước tại trung ương để theo dõi, chỉ đạo việc giải quyết bồi thường hiệu quả, kịp thời tháo gỡ và đưa ra các giải pháp thực hiện đối với các vụ việc phức tạp, kéo dài cần sự thống nhất của liên ngành.
- Tăng cường hoạt động phối hợp giữa Sở Tư pháp với và một số sở, ngành trong việc thực hiện quản lý nhà nước về công tác bồi thường nhà nước tại địa phương, đặc biệt liên quan đến việc tham gia hoạt động giải quyết bồi thường của cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại trong giai đoạn xác minh thiệt hại và thương lượng giải quyết bồi thường; theo dõi, đôn đốc việc giải quyết bồi thường hiệu quả, kịp thời tháo gỡ và đưa ra các giải pháp thực hiện đối với các vụ việc phức tạp, kéo dài cần sự thống nhất của liên ngành tại địa phương.
- Nâng cao nhận thức pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, chú trọng phổ biến các quy định pháp luật liên quan trực tiếp đến quyền con người, quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân, trình tự, thủ tục, kỹ năng trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp và thực hiện nghĩa vụ trong quá trình thực hiện quyền yêu cầu bồi thường cho các đối tượng là cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp.
- Tăng cường hỗ trợ cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp thực hiện quyền yêu cầu bồi thường theo quy định của Luật năm 2017.
Thứ tư, tiếp tục nghiên cứu, xây dựng hoàn thiện Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước về giải quyết bồi thường để phù hợp với yêu cầu và tình hình kinh tế - xã hội trong giai đoạn tới. Đến giai đoạn 2021 - 2030, việc nghiên cứu, xây dựng hoàn thiện các quy định của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước về giải quyết bồi thường cần phải được đặt ra để tiếp tục hoàn thiện thể chế về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đáp ứng tình hình kinh tế - xã hội trong 10 năm tới và đáp ứng định hướng, nhiệm vụ trọng tâm phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030 đã được đề ra tại Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng về “xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”, “kiểm soát quyền lực gắn với siết chặt kỷ cương, kỷ luật trong hoạt động của Nhà nước và của cán bộ, công chức, viên chức”; “hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm phát huy mạnh mẽ dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân; đồng thời xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh”[4].
Để nghiên cứu, xây dựng hoàn thiện Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, trong quá trình tổ chức thực hiện Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước cần lưu ý:
- Đánh giá kết quả thực hiện, tập hợp khó khăn, vướng mắc trong quá trình thi hành Luật năm 2017 và đề xuất nâng cao hiệu quả thi hành thể chế về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước;
- Nghiên cứu, hoàn thiện các quy định về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đáp ứng tình hình kinh tế - xã hội trong 10 năm tới và đáp ứng định hướng, nhiệm vụ trọng tâm xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa giai đoạn 2021 - 2030 đã được đề ra tại Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.
ThS. Lê Thị Thu Hằng
Cục Bồi thường nhà nước
[1]. Tờ trình số 112/TTr-CP ngày 15/8/2008 của Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội dự án Luật Bồi thường Nhà nước.Cục Bồi thường nhà nước
[2]. Mục 3 Phần I và điểm a mục 3 Phần II Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 01/01/2021 của Chính phủ về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và Dự toán ngân sách nhà nước năm 2021.
[3]. Quyết định số 71/QĐ-BTP ngày 19/01/2021 của Bộ Tư pháp ban hành Chương trình hành động của Ngành Tư pháp thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 01/01/2021 của Chính phủ về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2021; Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 01/01/2021 của Chính phủ về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2021.
[4]. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.