Thứ sáu 20/06/2025 12:39
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Giải quyết yêu cầu cấp giấy xác nhận có quốc tịch Việt Nam và giấy xác nhận là người gốc Việt Nam

Cấp giấy xác nhận có quốc tịch Việt Nam (GXNQT) và giấy xác nhận là người gốc Việt Nam (GXNGV) hiện được quy định tại Nghị định số 16/2020/NĐ-CP ngày 03/02/2020 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Quốc tịch Việt Nam (Nghị định số 16/2020/NĐ-CP). Trước khi Nghị định số 16/2020/NĐ-CP được ban hành thì hai thủ tục này được quy định tại Thông tư liên tịch số 05/2010/TTLT/BTP-BNG-BCA ngày 01/3/2010 của Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao, Bộ Công an hướng dẫn thi hành Nghị định số 78/2009/NĐ-CP ngày 22/9/2009 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam (Thông tư liên tịch số 05/2010/TTLT/BTP-BNG-BCA) và Thông tư liên tịch số 05/2013/TTLT-BTP-BNG-BCA ngày 31/01/2013 của Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao, Bộ Công an sửa đổi, bổ sung Điều 13 Thông tư liên tịch số 05/2010/TTLT/BTP-BNG-BCA.

Bên cạnh các thủ tục nhập, trở lại, thôi, tước quốc tịch Việt Nam, hủy bỏ quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam trước đây đã được quy định trong Luật Quốc tịch Việt Nam và Nghị định thì việc đưa các quy định cấp GXNQT và GXNGV từ thông tư lên nghị định đã thể hiện sự quan tâm của Nhà nước trong công tác quản lý về quốc tịch nói chung và công tác quản lý về việc cấp các loại giấy này nói riêng.

1. Những thuận lợi trong việc giải quyết yêu cầu xin cấp giấy xác nhận có quốc tịch Việt Nam, giấy xác nhận là người gốc Việt Nam

1.1. Quy định rõ về thẩm quyền

Điều 30, Điều 32 Nghị định số 16/2020/NĐ-CP quy định cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận và cấp hai loại giấy này là Sở Tư pháp hoặc cơ quan đại diện, nơi người có yêu cầu cấp GXNQT và GXNGV đang cư trú vào thời điểm nộp hồ sơ. Riêng đối với thủ tục cấp GXNGV thì người yêu cầu còn có thể nộp hồ sơ tại Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài thuộc Bộ Ngoại giao. Như vậy, có thể thấy, người có nhu cầu cấp các giấy tờ trên hiện đang cư trú tại bất kỳ đâu trong nước hay nước ngoài đều có thể đến cơ quan có thẩm quyền tại nơi đang cư trú để nộp hồ sơ.

1.2. Quy định cụ thể, rõ ràng về trình tự, thủ tục

- Đối với thủ tục cấp GXNQT

Theo Nghị định số 16/2020/NĐ-CP, người có nhu cầu cấp GXNQT ngoài các giấy tờ phải nộp theo mẫu (ảnh, tờ khai, giấy tờ chứng minh nhân thân) thì một trong các giấy tờ quan trọng phải có là giấy tờ chứng minh quốc tịch Việt Nam, cụ thể là các giấy tờ sau: (i) Giấy tờ theo quy định tại Điều 11 Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008, được sửa đổi, bổ sung năm 2014 (Luật Quốc tịch Việt Nam). Ngoài ra, theo quy định của Luật Căn cước công dân năm 2014 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2016) thì thẻ căn cước công dân được sử dụng thay chứng minh nhân dân. Do đó, thẻ căn cước công dân cũng có giá trị chứng minh quốc tịch Việt Nam. (ii) Giấy tờ tương tự do chính quyền cũ trước đây cấp, kể cả giấy khai sinh trong đó không có mục quốc tịch hoặc mục quốc tịch bỏ trống nhưng trên đó ghi họ tên Việt Nam của người yêu cầu và cha, mẹ của người đó.

Tuy nhiên, trên thực tế, không phải trường hợp nào cũng có đủ một trong các giấy tờ trên để chứng minh quốc tịch Việt Nam. Do đó, để tạo điều kiện cho công dân Việt Nam có thể được cấp GXNQT, Nghị định số 16/2020/NĐ-CP còn có quy định mở đó là: Trong trường hợp không có giấy tờ chứng minh quốc tịch Việt Nam như trên, người yêu cầu phải lập bản khai lý lịch, kèm theo một trong các giấy tờ quy định tại khoản 2 Điều 28 Nghị định này để làm cơ sở xác minh quốc tịch Việt Nam.

Trên cơ sở hồ sơ của người có yêu cầu cấp GXNQT, cơ quan có thẩm quyền sẽ tiến hành kiểm tra, xác minh, tra cứu quốc tịch Việt Nam theo các bước quy định tại khoản 2 Điều 31 Nghị định số 16/2020/NĐ-CP.

Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được kết quả tra cứu, xác minh theo quy định, nếu có đủ căn cứ để xác định quốc tịch Việt Nam và người đó không có tên trong danh sách được thôi quốc tịch, bị tước quốc tịch, bị hủy bỏ quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam, cơ quan thụ lý hồ sơ ghi vào sổ cấp GXNQT; người đứng đầu cơ quan ký và cấp GXNQT theo mẫu quy định cho người yêu cầu. Nếu không có cơ sở để cấp GXNQT, cơ quan thụ lý hồ sơ trả lời bằng văn bản cho người yêu cầu biết.

- Đối với thủ tục cấp GXNGV

So với thủ tục cấp GXNQT thì hồ sơ, trình tự, thủ tục giải quyết cấp GXNGV được quy định đơn giản hơn, cụ thể:

Ngoài các giấy tờ phải nộp theo mẫu (ảnh, tờ khai, giấy tờ chứng minh nhân thân) thì người yêu cầu cấp GXNGV phải có một trong các giấy tờ như giấy tờ được cấp trước đây để chứng minh người đó đã từng có quốc tịch Việt Nam hoặc giấy tờ để chứng minh khi sinh ra người đó có cha mẹ hoặc ông bà nội, ông bà ngoại đã từng có quốc tịch Việt Nam.

Trường hợp không có bất kỳ giấy tờ nào nêu trên thì tùy từng hoàn cảnh cụ thể, có thể nộp bản sao giấy tờ về nhân thân, quốc tịch, hộ tịch do chế độ cũ ở miền Nam cấp trước ngày 30/4/1975; giấy tờ do chính quyền cũ ở Hà Nội cấp từ năm 1911 đến năm 1956; giấy bảo lãnh của Hội đoàn người Việt Nam ở nước ngoài nơi người đó đang cư trú, trong đó xác nhận người đó có gốc Việt Nam; giấy bảo lãnh của người có quốc tịch Việt Nam, trong đó xác nhận người đó có gốc Việt Nam; giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cấp trong đó ghi quốc tịch Việt Nam hoặc quốc tịch gốc Việt Nam.

Về thủ tục giải quyết: Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý hồ sơ, cơ quan thụ lý hồ sơ có trách nhiệm xem xét, kiểm tra thông tin trong hồ sơ với giấy tờ do người yêu cầu xuất trình và đối chiếu với cơ sở dữ liệu, tài liệu liên quan đến quốc tịch. Nếu thấy có đủ cơ sở để xác định người đó có nguồn gốc Việt Nam, cơ quan thụ lý hồ sơ ghi vào sổ cấp giấy xác nhận là người gốc Việt Nam; người đứng đầu cơ quan ký và cấp giấy xác nhận là người gốc Việt Nam theo mẫu quy định cho người yêu cầu. Nếu không có cơ sở để cấp giấy xác nhận là người gốc Việt Nam, cơ quan thụ lý hồ sơ thông báo bằng văn bản cho người yêu cầu biết.

Như vậy, có thể thấy, hiện nay, các quy định về cấp GXNQT và cấp GXNGV được quy định cụ thể, rõ ràng hơn về thẩm quyền, trình tự, thủ tục và thời hạn giải quyết, tạo thuận lợi cho công dân khi làm các thủ tục xin cấp các loại giấy này, đồng thời cũng tạo điều kiện để các cơ quan có thẩm quyền thực hiện tốt hơn trách nhiệm của mình trong giải quyết và quản lý việc cấp các loại giấy tờ trên.

2. Những hạn chế, bất cập trong giải quyết yêu cầu xin cấp giấy xác nhận có quốc tịch Việt Nam và giấy xác nhận là người gốc Việt Nam

Thứ nhất, về thẩm quyền giải quyết việc cấp GXNQT và cấp GXNGV, theo quy định tại Điều 1 Luật Cư trú năm 2006 thì cư trú là việc công dân sinh sống tại một địa điểm thuộc xã, phường, thị trấn dưới hình thức thường trú hoặc tạm trú; theo quy định tại khoản 1 Điều 12 Luật Cư trú năm 2006, nơi cư trú của công dân là nơi thường trú hoặc tạm trú. Như vậy, đối với những trường hợp người Việt Nam định cư ở nước ngoài về Việt Nam trong một thời gian nhất định và không có đăng ký tạm trú (chỉ lưu trú) muốn cấp các giấy tờ trên thì Sở Tư pháp nơi người đó lưu trú không có thẩm quyền tiếp nhận hồ sơ mà hướng dẫn người dân nộp hồ sơ cho cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài nơi người đó cư trú. Theo phản ánh của nhiều địa phương, trong thời gian qua, có nhiều trường hợp người Việt Nam định cư ở nước ngoài về Việt Nam lưu trú trong một thời gian dài (không đăng ký tạm trú) muốn nộp hồ sơ xin cấp GXNQT/GXNGV tại Sở Tư pháp nơi đang lưu trú (vì nhiều lý do khách quan không thể quay về nước sở tại để nộp hồ sơ) nhưng Sở Tư pháp không thể tiếp nhận vì không đúng thẩm quyền theo nơi cư trú. Việc này dẫn đến những bất cập, nhất là đối với những người lớn tuổi, về Việt Nam lưu trú đã lâu, các giấy tờ chứng minh quốc tịch Việt Nam không có, giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cấp đã hết hạn, sức khỏe yếu không thể trở về nước sở tại... dẫn đến ảnh hưởng không nhỏ đến quyền và lợi ích của công dân.

Hiện nay, mặc dù Luật Cư trú năm 2020 và nghị định quy định chi tiết đã có hiệu lực thi hành thay thế các quy định trước đây, nhưng bất cập này có được giải quyết hay không thì vẫn cần phải chờ thực tiễn thực thi trong thời gian tới.

Thứ hai, giấy tờ chứng minh có quốc tịch Việt Nam theo Điều 11 Luật Quốc tịch Việt Nam là căn cứ để cấp GXNQT. Tuy nhiên, quy định này vẫn còn có một số bất cập như: Quy định trường hợp giấy khai sinh không thể hiện rõ quốc tịch Việt Nam thì phải kèm theo giấy tờ chứng minh quốc tịch Việt Nam của cha mẹ, nhưng trên thực tế, hầu hết những trường hợp đăng ký khai sinh trước năm 1975 trên giấy khai sinh không có mục ghi quốc tịch nên việc yêu cầu xuất trình thêm giấy tờ của cha mẹ đã gây khó khăn cho người dân vì có nhiều trường hợp người lớn tuổi, cha mẹ đã chết từ lâu nhưng không có đăng ký khai tử hoặc không có giấy tờ tùy thân của cha mẹ. Đồng thời, gây khó khăn trong việc xác định một người có quốc tịch Việt Nam hay không. Bên cạnh đó, một bộ phận không nhỏ người Việt Nam định cư ở nước ngoài chỉ có hộ chiếu nước ngoài và không có giấy tờ gì chứng minh quốc tịch Việt Nam theo quy định tại Điều 11 Luật Quốc tịch Việt Nam, nhưng họ có giấy xác nhận tàng thư hộ khẩu của cơ quan công an là trước khi xuất cảnh họ có đăng ký hộ khẩu thường trú tại địa phương, đây cũng có thể coi là giấy tờ có giá trị chứng minh quốc tịch Việt Nam, tuy nhiên, Điều 11 Luật Quốc tịch Việt Nam không có quy định về loại giấy tờ này.

Thứ ba, về tra cứu quốc tịch Việt Nam, theo quy định thì trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày thụ lý hồ sơ, Sở Tư pháp hoặc cơ quan đại diện phải kiểm tra, tra cứu hoặc có văn bản đề nghị Bộ Tư pháp tra cứu quốc tịch Việt Nam để biết người đó đã có tên trong danh sách được thôi quốc tịch, bị tước quốc tịch, hủy bỏ quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam hay chưa. Thực tế hiện nay, Bộ Tư pháp vẫn chưa hoàn thiện xong Cơ sở dữ liệu về quốc tịch để có thể chia sẻ cho tất cả các địa phương, các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài để có thể sử dụng và tự tra cứu. Do đó, hầu hết hồ sơ của các trường hợp có yêu cầu cấp GXNQT đều được gửi về Bộ Tư pháp để thực hiện việc tra cứu, điều đó một phần dẫn đến quá tải trong việc tra cứu và có văn bản trả lời (hiện tại trung bình mỗi tháng Bộ Tư pháp tiếp nhận đề nghị tra cứu khoảng 200 trường hợp), đồng thời, khó bảo đảm đúng thời hạn quy định của pháp luật.

Thứ tư, về khái niệm gốc Việt Nam, theo quy định tại khoản 4 Điều 3 Luật Quốc tịch Việt Nam thì “người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài” là người Việt Nam đã từng có quốc tịch Việt Nam mà khi sinh ra quốc tịch của họ được xác định theo nguyên tắc huyết thống và con, cháu của họ đang cư trú, sinh sống lâu dài ở nước ngoài. Như vậy, theo quy định này, để xác định một người có phải “gốc” Việt Nam hay không cần căn cứ trên các yếu tố: Đã từng có quốc tịch Việt Nam cộng thêm quốc tịch Việt Nam mà họ có phải được xác định trên nguyên tắc huyết thống (có quốc tịch từ cha mẹ, không phải do được nhập) và con cháu của họ đang cư trú, sinh sống lâu dài ở nước ngoài cũng được xác định là có gốc Việt Nam. Tuy nhiên, thực hiện quy định này, hiện nay đang có luồng ý kiến khác nhau liên quan đến khái niệm “huyết thống”. Có ý kiến cho rằng, cha mẹ có quốc tịch Việt Nam (không quan tâm đến lý do có quốc tịch Việt Nam của cha mẹ là gì), con của họ có quốc tịch Việt Nam theo cha mẹ thì việc người con của họ có quốc tịch được coi là “huyết thống” và là người gốc Việt Nam. Ý kiến khác cho rằng, “huyết thống” phải được xác định là người có dòng máu Việt Nam (gốc gác tổ tiên lâu đời). Do có quan điểm khác nhau, nên việc triển khai trên thực tế còn gặp khó khăn.

Thứ năm, trong hồ sơ thủ tục cấp GXNGV có quy định “trường hợp không có bất kỳ giấy tờ nào nêu trên thì tùy từng hoàn cảnh cụ thể, có thể nộp giấy bảo lãnh của Hội đoàn người Việt Nam ở nước ngoài nơi người đó đang cư trú, trong đó xác nhận người đó có gốc Việt Nam; giấy bảo lãnh của người có quốc tịch Việt Nam, trong đó xác nhận người đó có gốc Việt Nam”. Tuy nhiên, trên thực tế thì hiện nay chưa có quy định về mẫu giấy bảo lãnh và giấy bảo lãnh đó có cần phải chứng thực chữ ký của người cam kết, bảo lãnh hay không, nên mỗi địa phương có cách hướng dẫn khác nhau khi công dân nộp loại giấy tờ này.

Có thể thấy rằng, việc Chính phủ ban hành Nghị định số 16/2020/NĐ-CP là căn cứ pháp lý quan trọng để giải quyết thuận lợi, thỏa đáng các yêu cầu về quốc tịch của người dân. Tuy nhiên, việc tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật để đáp ứng ngày một tốt hơn yêu cầu cải cách hành chính là rất cần thiết.

ThS. Hán Thị Vân Khánh
Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Giải trừ trách nhiệm của công chức thuế, tạo thuận lợi giải quyết hoàn thuế cho doanh nghiệp

Luật số 56/2024/QH15 bổ sung quy định về trách nhiệm của công chức thuế theo hướng giải trừ trách nhiệm cho công chức thuế khi có gian lận trong kê khai, cung cấp thông tin tạo thuận lợi giải quyết hoàn thuế cho doanh nghiệp chân chính.

Cải cách thủ tục hành chính cấp Phiếu lý lịch tư pháp tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tại thành phố Hải Phòng

Hải Phòng là địa phương luôn nỗ lực, tích cực thực hiện cải cách thủ tục hành chính, với mục tiêu tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp, trong đó phải kể đến lĩnh vực cấp Phiếu lý lịch tư pháp. Điều này được thể hiện rõ nét qua sự quyết tâm, chủ động, sáng tạo trong triển khai, thực hiện các văn bản, quy định nhằm cải cách thủ tục hành chính cấp Phiếu lý lịch tư pháp.

Pháp luật quốc tế về bảo vệ quyền riêng tư của cá nhân trong bối cảnh chuyển đổi số và những khuyến nghị cho Việt Nam

Bài viết bàn về những vấn đề cơ bản của quyền riêng tư và sự cần thiết phải bảo vệ quyền riêng tư; phân tích các vấn đề pháp lý về bảo vệ quyền riêng tư của cá nhân theo pháp luật quốc tế, từ đó đúc kết và đưa ra những khuyến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực này tại Việt Nam trong bối cảnh chuyển đổi số.

Bảo đảm quyền văn hóa của người dân tộc thiểu số trong bối cảnh chuyển đổi số

Bài viết nghiên cứu về những vấn đề đặt ra đối với việc bảo đảm quyền văn hóa của người dân tộc thiếu số ở nước ta hiện nay trong bối cảnh chuyển đổi số.

Xây dựng, kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức Ngành Tư pháp đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới

Bài viết đề cập đến vấn đề xây dựng và kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức Ngành Tư pháp trong sạch, vững mạnh, liêm chính, chuyên nghiệp đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Nâng cao hiệu quả công tác xếp loại thi đua chấp hành án phạt tù đối với phạm nhân ở các cơ sở giam giữ

Nâng cao hiệu quả công tác xếp loại thi đua chấp hành án phạt tù đối với phạm nhân ở các cơ sở giam giữ

Thi đua chấp hành án phạt tù tại các cơ sở giam giữ là một trong những yêu cầu phạm nhân phải thực hiện theo quy định của pháp luật. Kết quả của việc thi đua chấp hành án phạt tù là cơ sở để thực hiện các chính sách của Nhà nước đối với phạm nhân theo quy định của Luật Thi hành án hình sự năm 2019. Công tác xếp loại thi đua chấp hành án phạt tù đối với phạm nhân thuộc về cơ sở giam giữ phạm nhân theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, qua thực tiễn thi hành cho thấy một số khó khăn, vướng mắc cần có giải pháp khắc phục, nâng cao hiệu quả công tác này trong thời gian tới.
Sở Tư pháp tỉnh Kon Tum đẩy mạnh hoạt động xây dựng Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp

Sở Tư pháp tỉnh Kon Tum đẩy mạnh hoạt động xây dựng Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp

Nhận thức rõ tầm quan trọng của dữ liệu lý lịch tư pháp trong tiến trình xây dựng, phát triển Chính phủ điện tử, Chính phủ số, công dân số, phục vụ tốt nhất cho người dân và doanh nghiệp thông qua việc cấp Phiếu lý lịch tư pháp qua môi trường điện tử theo tinh thần của Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030 (Đề án số 06/CP của Chính phủ), được sự quan tâm, chỉ đạo của lãnh đạo tỉnh, Sở Tư pháp tỉnh Kon Tum đã ban hành và tổ chức thực hiện Kế hoạch số 64/KH-STP ngày 18/7/2024 về cao điểm nhập dữ liệu thông tin lý lịch tư pháp vào Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp dùng chung của Sở Tư pháp tỉnh Kon Tum.

Công tác tư pháp 06 tháng cuối năm 2024: Tập trung hoàn thiện thể chế và đẩy mạnh chuyển đổi số trong ngành Tư pháp

Trong 06 tháng đầu năm 2024, Bộ, Ngành Tư pháp đã bám sát sự lãnh đạo của Đảng, Quốc hội, sự điều hành của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ, đoàn kết, trách nhiệm, tập trung triển khai toàn diện, kịp thời các nhiệm vụ được giao đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội của đất nước. Theo đó, để hoàn thành tốt kế hoạch công tác năm 2024, Bộ, Ngành Tư pháp đã đề ra những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu của 06 tháng cuối năm, trong đó xác định tiếp tục đổi mới, quyết liệt trong chỉ đạo, điều hành; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước; tiếp tục đầu tư nguồn lực, cơ sở hạ tầng để đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong Ngành Tư pháp... góp phần vào công cuộc phát triển đất nước trong tình hình mới.
Một số ý kiến góp ý đối với Đề cương chi tiết Luật Luật sư thay thế Luật Luật sư năm 2006

Một số ý kiến góp ý đối với Đề cương chi tiết Luật Luật sư thay thế Luật Luật sư năm 2006

Một trong các nhiệm vụ và giải pháp được xác định trong Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Hội nghị lần thứ 6, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới (Nghị quyết số 27-NQ/TW) đã xác định: “Hoàn thiện thể chế về luật sư và hành nghề luật sư, bảo đảm để luật sư thực hiện tốt quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm theo quy định của pháp luật...”.
Hoạt động đấu giá tài sản tiếp tục được chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa một cách mạnh mẽ

Hoạt động đấu giá tài sản tiếp tục được chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa một cách mạnh mẽ

Ngày 27/6/2024, tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đấu giá tài sản nhằm góp phần phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí; tiếp tục nâng cao tính chuyên nghiệp hóa, chuyên môn hóa của đội ngũ đấu giá viên, tổ chức đấu giá tài sản; khắc phục những hạn chế, bất cập, bảo đảm tính công khai, minh bạch, khách quan, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong hoạt động đấu giá tài sản; nâng cao hiệu quả, hiệu lực của công tác quản lý nhà nước về đấu giá tài sản. Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2025.
Nỗ lực số hóa dữ liệu hộ tịch - Phấn đấu đẩy nhanh tiến độ, “về đích” sớm*

Nỗ lực số hóa dữ liệu hộ tịch - Phấn đấu đẩy nhanh tiến độ, “về đích” sớm*

Số hóa dữ liệu hộ tịch được xác định là một trong các nhiệm vụ trọng tâm của Ngành Tư pháp năm 2024. Theo thống kê của Bộ Tư pháp, các cơ quan đăng ký hộ tịch trên cả nước đang lưu trữ trên 08 triệu sổ đăng ký hộ tịch các loại, tương ứng với hơn 100 triệu dữ liệu hộ tịch, việc hoàn thành số hóa các dữ liệu hộ tịch vừa đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số trong lĩnh vực đăng ký và quản lý hộ tịch, thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ - xác định năm 2024 là năm số hóa dữ liệu, vừa bảo đảm cung cấp thông tin đầu vào, chia sẻ, đồng bộ dữ liệu dân cư, thúc đẩy việc triển khai Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030 ban hành kèm theo Quyết định số 06/QĐ-TTg ngày 06/01/2022 của Thủ tướng Chính phủ (Đề án 06).
Tăng cường sự lãnh đạo của các tổ chức cơ sở đảng trong thực hiện Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở tại tỉnh Quảng Trị

Tăng cường sự lãnh đạo của các tổ chức cơ sở đảng trong thực hiện Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở tại tỉnh Quảng Trị

Tổ chức, triển khai thực hiện đưa Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở vào cuộc sống là một trong những nhiệm vụ rất quan trọng hiện nay góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng gắn với phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát và dân thụ hưởng”.

Đơn giản hóa các thủ tục hành chính liên quan đến Phiếu lý lịch tư pháp

Bài viết này khái quát về đơn giản hóa thủ tục hành chính và phân tích thực trạng về thủ tục hành chính liên quan đến Phiếu lý lịch tư pháp, từ đó, đưa ra một số đề xuất cắt giảm, đơn giản hóa các quy định, thủ tục hành chính liên quan đến Phiếu lý lịch tư pháp trong thời gian tới.
Cấp phiếu lý lịch tư pháp qua ứng dụng VNeID tại Thành phố Hà Nội và tỉnh Thừa Thiên Huế - Kết quả bước đầu và vấn đề cần hoàn thiện

Cấp phiếu lý lịch tư pháp qua ứng dụng VNeID tại Thành phố Hà Nội và tỉnh Thừa Thiên Huế - Kết quả bước đầu và vấn đề cần hoàn thiện

Bài viết nêu lên những kết quả bước đầu của công tác thí điểm cấp Phiếu lý lịch tư pháp trên ứng dụng VNeID tại Thành phố Hà Nội và tỉnh Thừa Thiên Huế; từ đó, đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động cấp Phiếu lý lịch tư pháp trên ứng dụng VNeID trong thời gian tới.
Dấu ấn vị Bộ trưởng qua gần 8 năm “dẫn dắt” ngành Tư pháp

Dấu ấn vị Bộ trưởng qua gần 8 năm “dẫn dắt” ngành Tư pháp

Gần 8 năm trên cương vị Bộ trưởng Tư pháp, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Ban cán sự đảng, Bộ trưởng Lê Thành Long luôn là vị Bộ trưởng của hành động, nắm chắc lý luận, sâu sát thực tiễn, truyền lửa đam mê tới mỗi công chức, viên chức, người lao động trong toàn Ngành.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm