1. Về mục tiêu ban hành Luật Trưng cầu ý dân
Nội dung của một dự án luật, các quy định cụ thể và cách thiết kế từng điều khoản của dự án Luật và kể cả các chính sách lớn, nhỏ của dự án Luật phụ thuộc rất nhiều vào việc chúng ta xác định mục tiêu, quan điểm ban hành Luật như thế nào. Đặt trong bối cảnh trong nước, bối cảnh quốc tế và trong điều kiện hệ thống pháp luật hiện nay, chúng tôi cho rằng, cần xác định rõ mục tiêu ban hành Luật lần này là nhằm tạo khuôn khổ pháp lý minh bạch và điều kiện thuận lợi để nhân dân tham gia sâu, quyết định trực tiếp, làm tăng tính chính danh đối với những vấn đề liên quan đến chủ quyền và sự phát triển bền vững của quốc gia trong quá trình hội nhập toàn diện với khu vực và quốc tế; đẩy mạnh dân chủ hóa đời sống xã hội trong quá trình phát triển kinh tế thị trường, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; cụ thể hóa quy định của Hiến pháp, nội luật hóa điều ước quốc tế về quyền dân sự - chính trị của con người mà Việt Nam là thành viên và phù hợp với xu thế chung của các quốc gia dân chủ trong thế giới hiện đại[3].
Luật Trưng cầu ý dân được ban hành nhằm cụ thể hóa các điều kiện, trình tự bảo đảm thực hiện quyền biểu quyết của công dân theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013. Vấn đề đặt ra là pháp luật có cần làm rõ và giới hạn những chủ thể nào, công dân nào có đủ điều kiện tham gia biểu quyết khi có trưng cầu ý dân? Xuất phát từ nhận thức quyền biểu quyết trưng cầu ý dân là quyền dân chủ trực tiếp cao nhất của công dân, để cụ thể hóa đầy đủ hơn tinh thần bảo vệ quyền cơ bản của công dân theo Hiến pháp năm 2013, chúng tôi cho rằng, không nên quá thu hẹp diện những người bị hạn chế thực hiện quyền trưng cầu ý dân mặc dù sẽ phải tăng thêm chi phí thi hành Luật. Việc mở rộng sự tham gia của người dân vào quy trình ra quyết định/quy trình trưng cầu ý dân sẽ góp phần tạo dựng bầu không khí dân chủ, đồng thuận trong xã hội, nâng cao trách nhiệm công dân về thực thi quyền dân chủ trực tiếp thông qua trưng cầu ý dân về những vấn đề hệ trọng của đất nước; gắn kết hơn giữa Nhà nước và công dân, ngay cả đối với những người đang bị tước tự do có thời hạn; giúp họ tăng cường ý thức trách nhiệm đối với cộng đồng và nhất là tăng nhận thức của công dân về quyền con người[4].
2. Về phạm vi vấn đề được Quốc hội quyết định trưng cầu ý dân
Hiến pháp năm 2013 quy định Quốc hội là cơ quan có thẩm quyền quyết định trưng cầu ý dân (khoản 15 Điều 70) và tại khoản 4 Điều 120 có quy định “việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp do Quốc hội quyết định”. Điều này không đồng nghĩa với việc thẩm quyền của Quốc hội chỉ có thể quyết định trưng cầu ý dân về Hiến pháp. Việc xác định vấn đề nào phải đưa ra trưng cầu ý dân là đặc biệt quan trọng, liên quan và ảnh hưởng trực tiếp đến quyền dân chủ trực tiếp của người dân trong tham gia vào các công việc của Nhà nước. Tuy nhiên, để xác định cụ thể những vấn đề nào phải đưa ra trưng cầu ý dân còn tùy thuộc vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể của đất nước tại mỗi thời điểm nhất định.
Chúng tôi cho rằng, dự thảo Luật Trưng cầu ý dân chỉ nên quy định khái quát, có tính nguyên tắc những vấn đề Quốc hội có thể quyết định đưa ra trưng cầu ý dân, vấn đề cụ thể sẽ do Quốc hội lựa chọn quyết định. Tuy nhiên, cần lưu ý là phạm vi vấn đề đưa ra trưng cầu ý dân, trước hết phải là vấn đề quan trọng của đất nước và vấn đề phải thuộc thẩm quyền của Quốc hội (do Hiến pháp năm 2013 chưa quy định thẩm quyền của Hội đồng nhân dân quyết định trưng cầu ý dân) và trong quá trình Quốc hội thực hiện chức năng “quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước” (Điều 69 Hiến pháp năm 2013) và các nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Quốc hội quy định tại Điều 70 Hiến pháp năm 2013.
Dự thảo Luật có thể quy định khái quát phạm vi vấn đề có thể trưng cầu ý dân trong khuôn khổ thẩm quyền của Quốc hội, mà không gò bó vào một vấn đề cụ thể hoặc quy định có tính chất bắt buộc Quốc hội phải tổ chức trưng cầu ý dân về những vấn đề gì nhằm tạo điều kiện để các cơ quan, chủ thể liên quan có thể cân nhắc kỹ các tình huống khi nào cần trưng cầu ý dân, từ đó bảo đảm các lợi ích chính trị, kinh tế và bảo đảm ổn định trật tự, an toàn xã hội. Cách quy định này khá phụ thuộc vào ý chí và quyền tự quyết của chủ thể đề xuất, chủ thể quyết định và ở một phương diện nào đó, quyền biểu quyết của nhân dân khi Nhà nước trưng cầu ý dân vẫn bị lệ thuộc cơ bản vào Nhà nước, bộ máy nhà nước (chủ thể đề xuất, chủ thể quyết định trưng cầu ý dân).
Nếu quy định cụ thể các vấn đề trưng cầu ý dân trong Luật Trưng cầu ý dân sẽ thuận lợi cho cơ quan đề nghị trưng cầu ý dân, có thể kiểm soát chính Quốc hội, đòi hỏi Quốc hội cũng phải “tuân thủ luật” mà không tùy nghi trong quá trình ra quyết định. Tuy nhiên, nếu theo cách này thì việc áp dụng trưng cầu ý dân trở lên cứng nhắc, thường xuyên và đôi khi là không cần thiết, nhất là việc tổ chức trưng cầu ý dân là rất tốn kém.
Do đó, dự thảo Luật có thể quy định khái quát nhưng cũng cần đủ cụ thể và bám sát vào các vấn đề thuộc thẩm quyền quyết định của Quốc hội, như: Vấn đề quan trọng về sửa đổi, bổ sung Hiến pháp; con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; quyết định gia nhập hoặc chấm dứt hiệu lực điều ước quốc tế đặc biệt quan trọng; các chính sách lớn của các luật quan trọng hoặc các đạo luật đặc biệt quan trọng. Luật không nên xác định phạm vi vấn đề quá chung chung, sẽ gây lúng túng cho việc thực hiện. Luật cũng cần phải có tiêu chí cụ thể như: những vấn đề đưa ra trưng cầu ý dân phải là vấn đề quốc gia đại sự, không nên trưng cầu ý dân những vấn đề mang tính khu vực, cục bộ.
Bên cạnh đó, cần nghiên cứu quy định các vấn đề không được đề nghị trưng cầu ý dân. Cần quy định trong các hoàn cảnh (tình huống) đe dọa an ninh quốc gia, sức khỏe cộng đồng, cụ thể là khi tình trạng khẩn cấp, tình trạng chiến tranh được công bố thì không được đề nghị trưng cầu ý dân và không tổ chức trưng cầu ý dân.
3. Về phạm vi địa bàn trưng cầu ý dân
Trưng cầu ý dân là hình thức dân chủ trực tiếp cao nhất để người dân thể hiện quyền làm chủ của mình, quyền quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và địa phương. Việc xác định phạm vi trưng cầu ý dân ở quy mô nào toàn quốc hay địa phương phụ thuộc vào nhiều yếu tố như vấn đề trưng cầu ý dân, điều kiện địa lý, truyền thống chính trị, văn hóa… Đối với các vấn đề liên quan đến đời sống của nhân dân ở một số địa phương hoặc vùng lãnh thổ nhất định thì hiện nay pháp luật đã và sẽ tiếp tục bổ sung các quy định để bảo đảm có sự tham gia ý kiến của người dân trực tiếp chịu tác động (ví dụ như việc cần lấy ý kiến của nhân dân địa phương trong trường hợp nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính…). Tính chất và giá trị pháp lý của các hình thức lấy ý kiến nhân dân theo nhóm đối tượng hay địa bàn này khác so với trưng cầu ý dân thực hiện trên quy mô toàn quốc. Vấn đề đặt ra là luật có nên quy định phạm vi trưng cầu ý dân trên toàn quốc hay cần tiến hành ở phạm vi địa phương? Thực tiễn cho thấy có những vấn đề hệ trọng của quốc gia do Quốc hội quyết định nhưng chủ yếu ảnh hưởng đến lợi ích của một bộ phận dân cư hay tác động trực tiếp đến một hoặc một số địa phương nhất định (như xây dựng nhà máy điện hạt nhân ở một địa phương, việc trao những thẩm quyền đặc biệt cho chính quyền địa phương ở đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt, ở biên giới, hải đảo…).
Chúng tôi cho rằng, quyền quyết định trưng cầu chỉ thuộc về Quốc hội, phù hợp với quy định của Hiến pháp, phạm vi không chỉ ở toàn quốc mà có thể linh hoạt theo từng vấn đề, bảo đảm tăng cường dân chủ, tôn trọng quyền quyết định của nhân dân địa phương đối với vấn đề của địa phương. Cách làm này sẽ là bước chuyển tiếp để sau này áp dụng mở rộng việc trưng cầu ý dân không chỉ tổ chức ở phạm vi toàn quốc mà cả phạm vi địa phương, khi điều kiện kinh tế – xã hội của đất nước cho phép sẽ nâng cao một bước nữa về dân chủ (về mặt pháp lý thì Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức Quốc hội mới chỉ quy định Quốc hội là là cơ quan duy nhất có quyền quyết định việc trưng cầu ý dân).
4. Về giá trị pháp lý của kết quả trưng cầu ý dân
Kết quả cuộc trưng cầu ý dân có giá trị quyết định; kết quả cuộc trưng cầu ý dân phải đảm bảo số lượng cử tri nhất định theo công thức “quá bán kép”, tức là cuộc trưng cầu ý dân hợp lệ phải được quá nửa tổng số cử tri có tên trong danh sách cử tri đi bỏ phiếu và phương án trưng cầu ý dân được quá nửa số phiếu hợp lệ tán thành được công bố để thi hành. Như vậy, cần quy định rõ: Việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp thì cuộc trưng cầu ý dân hợp lệ phải được quá hai phần ba tổng số cử tri có tên trong danh sách cử tri đi bỏ phiếu và phương án được quá hai phần ba số phiếu hợp lệ tán thành được công bố để thi hành.
Đồng thời, Quốc hội phải ra nghị quyết xác nhận kết quả trưng cầu ý dân do Ủy ban Thường vụ Quốc hội công bố. Ủy ban Thường vụ Quốc hội phải báo cáo với Quốc hội tại kỳ họp gần nhất để Quốc hội xem xét thảo luận và ra nghị quyết công nhận kết quả trưng cầu ý dân và có hiệu lực từ ngày nào sẽ thể hiện ở nghị quyết của Quốc hội. Ủy ban Thường vụ Quốc hội công bố kết quả trưng cầu ý dân chậm nhất mười lăm ngày kể từ ngày bỏ phiếu trưng cầu ý dân. Kết quả trưng cầu ý dân có giá trị quyết định đối với vấn đề đưa ra trưng cầu ý dân và có hiệu lực kể từ ngày công bố. Theo đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội công bố kết quả trưng cầu ý dân tức là đã bảo đảm tính khách quan, hợp pháp của hoạt động này. Mặt khác, vấn đề đưa ra trưng cầu ý dân đã được người dân lựa chọn, quyết định theo ý chí của họ nên cơ quan nhà nước phải tôn trọng và thực hiện. Do vậy, Quốc hội không cần thiết phải ra nghị quyết xác nhận kết quả trưng cầu ý dân.
Kết quả của trưng cầu ý dân gắn liền với quy trình, thủ tục và các vấn đề được trưng cầu. Đối với các vấn đề chính sách không nằm trong một văn bản/một đạo luật cụ thể thì sau khi có kết quả, các đạo luật sẽ phải sửa theo ý chí của nhân dân (ví dụ có bỏ án tử hình trong Bộ luật Hình sự hay không); đối với việc trưng cầu ý dân về một đạo luật thì chính nhân dân là người quyết định về đạo luật đó mà không phải là thủ tục tham khảo ý kiến nhân dân như tổ chức lấy ý kiến về dự thảo luật. Riêng đối với quy trình sửa đổi Hiến pháp thì có 01 thủ tục đặc biệt quy định của tại Điều 120 của Hiến pháp năm 2013 đó là: Hiến pháp khi đạt 2/3 đại biểu Quốc hội thông qua thì có hiệu lực, nhưng trong trường hợp phải trưng cầu ý dân (do Quốc hội quyết định) thì sẽ theo đa số ý kiến của nhân dân mà không phải đưa trở lại Quốc hội nữa.
Giá trị pháp lý của việc lấy ý kiến nhân dân và trưng cầu ý dân là khác nhau; khi nhân dân đã biểu quyết đa số rồi thì đó là quyết định không có cơ quan nào có quyền phủ quyết. Khi cuộc trưng cầu đó tiến hành đúng pháp luật, đã hợp pháp, hợp hiến rồi thì người dân là người quyết định cuối cùng, không có cơ quan nào có quyền thay đổi quyết định đó. Như vậy, để bảo đảm giá trị pháp lý của kết quả trưng cầu ý dân, chúng tôi cho rằng cần bảo đảm:
Một là, kết quả trưng cầu ý dân cần tuân thủ nguyên tắc “quá bán kép” và không có sự phân biệt giữa trưng cầu ý dân về Hiến pháp và trưng cầu ý dân về các vấn đề khác. Đây cũng là xu thế chung trong Luật trưng cầu ý dân của các nước trên thế giới;
Hai là, giá trị quyết định của kết quả trưng cầu ý dân đối với vấn đề đưa ra trưng cầu phải được quy định rõ theo hướng: Kết quả trưng cầu ý dân có giá trị quyết định đối với vấn đề được đưa ra trưng cầu ý dân;
Ba là, về thời điểm trưng cầu ý dân trong quy trình sửa đổi, bổ sung Hiến pháp theo quy định tại khoản 4 Điều 120 Hiến pháp; đối với các vấn đề khác Quốc hội sẽ quyết định thời điểm trưng cầu ý dân trước hay sau khi Quốc hội thông qua, nhưng dù ở giai đoạn nào thì kết quả trưng cầu ý dân vẫn có giá trị quyết định.
5. Về cung cấp và công khai thông tin trong quá trình trưng cầu ý dân
Nhà nước cần minh bạch với công dân ngay cả khi tổ chức trưng cầu ý dân, xác định rõ thông tin gì phải được tiếp cận, cơ quan nào phải cung cấp thông tin; thủ tục nào, hình thức nào có thể công khai thông tin để mọi công dân đều thụ hưởng được quyền dân chủ trực tiếp của mình, nhất là trong điều kiện chỉ rất ít khi mới có thể tổ chức một cuộc trưng cầu ý dân và đối với vấn đề liên quan đến vận mệnh của đất nước hoặc trọng đại khác. Dự thảo Luật cần quy định ràng buộc trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc cung cấp đầy đủ thông tin cho người dân để bảo đảm sự lựa chọn, quyết định của họ là sáng suốt khi biểu quyết trưng cầu ý dân; tăng cường trách nhiệm của các cơ quan nhà nước về công bố, công khai thông tin trong quá trình trưng cầu ý dân. Dự thảo Luật cũng cần quy định trách nhiệm của các cơ quan nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân phải tăng cường việc tuyên truyền, vận động, giáo dục; tăng cường nhận thức của người dân trong quá trình trưng cầu; quy định về các loại thông tin phải công khai, hình thức công khai thông tin và các quy định khác nhằm bảo đảm người dân nắm được đầy đủ thông tin trong quá trình ra quyết định/biểu quyết trưng cầu ý dân.
Dự thảo Luật cần khắc phục điều kiện dân trí còn chưa đồng đều, về sự thiếu quan tâm đến đời sống chính trị của nhiều tầng lớp dân cư hiện nay; khắc phục được tình trạng quan liêu của công chức và thiếu sự tin tưởng vào lựa chọn của nhân dân. Luật chỉ có hiệu quả nếu các thông tin được cung cấp đầy đủ về vấn đề và các phương án được đưa ra trưng cầu ý dân; các ưu, nhược điểm (mặt tích cực, tiêu cực) hay tác động của từng phương án trên các phương diện kinh tế, xã hội, môi trường, chính trị, pháp luật, đối ngoại, quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân... và các vấn đề khác; các nguồn tài liệu có thể tham khảo thêm và chỉ rõ nơi có thể tham khảo tài liệu liên quan (ví dụ: Đối với các dự án luật thì phải có hồ sơ dự án đăng tải trên trang thông tin điện tử).
Nội dung thông tin cần tuyên truyền, vận động cũng rất quan trọng. Do đó, dự án luật cần quy định một cách đồng bộ, thống nhất, có quy định về hình thức, trách nhiệm của các cơ quan công khai thông tin cùng với quy định về nội dung thông tin phải công khai thì phương án mới đạt hiệu quả cao nhất, đồng thời cũng đạt được mục tiêu giải quyết vấn đề bất cập. Việc cung cấp đầy đủ thông tin cho người dân trong quá trình ra quyết định/biểu quyết đối với vấn đề được trưng cầu có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bảo đảm tính chính xác của quyết định, tính hiệu quả của việc tổ chức trưng cầu ý dân, đồng thời bảo đảm tính khả thi của Luật này. Do đó, dự thảo Luật cần quy định sao cho bảo đảm người dân được thông tin kịp thời, đầy đủ, chính xác về các thông tin liên quan đến vấn đề/phương án được đưa ra trưng cầu ý dân và cần quy định về trách nhiệm công khai thông tin, các loại thông tin được công khai và thời điểm công khai thông tin có liên quan đến vấn đề trưng cầu ý dân.
6. Về trình tự, thủ tục trưng cầu ý dân
Để bảo đảm sự chặt chẽ, tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật, chúng tôi cho rằng, nếu xác định các vấn đề được đề nghị trưng cầu ý dân thuộc thẩm quyền quyết định của Quốc hội như Dự thảo thì ngoài trình tự, thủ tục trưng cầu ý dân theo quy định của Luật này, còn có các trình tự, thủ tục để xây dựng các văn bản có chứa đựng các vấn đề đưa ra trưng cầu ý dân đang được pháp luật quy định (ví dụ: Trình tự, thủ tục sửa đổi Hiến pháp; xây dựng luật; phê chuẩn điều ước quốc tế... được thực hiện theo quy định của Hiến pháp, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật về ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế…). Do đó, để tránh sự xung đột pháp luật, đề nghị xử lý ngay tại Luật này theo hướng, bên cạnh quy định chung một trình tự, thủ tục về trưng cầu ý dân, cần bổ sung quy định có tính nguyên tắc về việc tuân thủ các văn bản pháp luật liên quan nhằm bảo đảm có sự kết nối giữa hai quy trình: (i) Chuẩn bị vấn đề đưa ra trưng cầu ý dân và (ii) tiến hành trưng cầu ý dân. Việc quy định như vậy cũng nhằm bảo đảm tính minh bạch của pháp luật, tránh hiểu nhầm việc thực hiện thủ tục này có thể thay thế các quy định về trình tự, thủ tục xây dựng các văn bản được đưa ra trưng cầu ý dân, cụ thể:
- Kết quả tổ chức trưng cầu ý dân được Ủy ban Thường vụ Quốc hội công bố với Quốc hội tại kỳ họp gần nhất (Điều 18 dự thảo) và trên phương tiện thông tin đại chúng và đăng trên Công báo nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Điều 52 Dự thảo Luật). Điều 10 dự thảo Luật quy định: Sau khi công bố thì kết quả trưng cầu ý dân có hiệu lực. Như vậy, các quy định trên dẫn đến không thống nhất trong cách hiểu về thời điểm có hiệu lực của kết quả trưng cầu ý dân: sau khi công bố với Quốc hội hay công bố trên phương tiện thông tin đại chúng, đăng trên Công báo.
- Theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì Chủ tịch nước ban hành lệnh để công bố luật, nghị quyết của Quốc hội, trong thời hạn chậm nhất là mười lăm ngày, kể từ ngày luật, pháp lệnh, nghị quyết được thông qua (Điều 57). Thời điểm có hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật được quy định trong văn bản nhưng không sớm hơn bốn mươi lăm ngày, kể từ ngày công bố hoặc ký ban hành (Điều 78). Như vậy, quy định về chủ thể công bố, thời điểm công bố, giá trị của việc công bố đối với các vấn đề đưa ra trưng cầu ý dân và văn bản chứa đựng vấn đề trưng cầu ý dân dưới hình thức luật, pháp lệnh là chưa thống nhất do chưa có sự kết nối với nhau.
- Theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì luật, nghị quyết của Quốc hội có thể được xem xét, thông qua tại một kỳ họp hoặc hai kỳ họp của Quốc hội, trong khi thời gian tổ chức một cuộc trưng cầu ý dân ít nhất là hai kỳ họp của Quốc hội (kể từ khi Quốc hội thông qua nghị quyết về trưng cầu ý dân đến khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội công bố kết quả tổ chức trưng cầu ý dân với Quốc hội tại kỳ họp gần nhất), do đó, nếu không có sự kết nối với quy trình xây dựng luật, nghị quyết của Quốc hội với quy trình trưng cầu ý dân thì sẽ dẫn đến có thể kéo dài trình tự, thủ tục xây dựng luật, nghị quyết hoặc dẫn đến lúng túng trong quá trình tổ chức trưng cầu ý dân.
Chu Thị Thái Hà
Vụ Pháp luật Hình sự - Hành chính
[1] Cho đến nay đã có 167/214 (78%) quốc gia và vùng lãnh thổ đã có luật hoặc các quy định pháp luật về trưng cầu ý dân (trích Dự thảo Tờ trình Quốc hội, Hội Luật gia Việt Nam).
[2] Hội Luật gia Việt Nam chủ trì soạn thảo và dự kiến trình Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp thứ 9, thông qua tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII.
[3] Xem, Báo cáo đánh giá tác động của Hội Luật gia Việt Nam
[4] Xem, Báo cáo đánh giá tác động của Hội Luật gia Việt Nam