Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 (dự thảo Nghị quyết)[1] gồm 02 điều, trong đó, Điều 1 dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung 08 điều của Hiến pháp năm 2013, Điều 2 quy định về hiệu lực thi hành và điều khoản chuyển tiếp. Về cơ bản tác giả nhất trí với nội dung dự thảo Nghị quyết, bên cạnh đó, tác giả có một số góp ý như sau:
Về sửa đổi, bổ sung Điều 9 Hiến pháp năm 2013 (khoản 1 Điều 1 dự thảo Nghị quyết)
Điều 9 Hiến pháp năm 2013 quy định về các tổ chức chính trị - xã hội bao gồm Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (khoản 1), Công đoàn Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam (khoản 2). Như vậy, để tạo ra sự nhất quán thì các nội dung trong Điều 9 chỉ nên đề cập đến các chủ thể này mà không cần mở rộng thêm các chủ thể khác. Nội dung này cũng được thể hiện nhất quán trong khoản 1 và 2 Điều 9. Tuy nhiên, đến khoản 3 Điều 9 lại mở rộng thêm đối tượng là “các tổ chức xã hội khác”. Điều này là không cần thiết bởi phạm vi của Điều 9 đang tập trung điều chỉnh các tổ chức chính trị - xã hội.
Do mở rộng thêm “các tổ chức xã hội khác” nên khoản 3 Điều 9 bổ sung quy định “các tổ chức xã hội khác hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, điều lệ của mỗi tổ chức”. Các tổ chức xã hội khác được thành lập theo quy định pháp luật nên đương nhiên phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Các tổ chức xã hội này có điều lệ, tôn chỉ hoạt động riêng nhưng điều lệ, tôn chỉ phải tuân thủ theo Hiến pháp và pháp luật. Các tổ chức này khi được thành lập phải có điều lệ phù hợp quy định pháp luật. Do đó, có viết ra hay không trong dự thảo Nghị quyết thì vấn đề cũng không thay đổi.
Vì vậy, tác giả kiến nghị sửa đổi khoản 3 Điều 9 như sau: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, điều lệ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Nhà nước tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận hoạt động”.
Về sửa đổi, bổ dung Điều 110 Hiến pháp năm 2013 (khoản 2 Điều 1 dự thảo Nghị quyết)
Một là, theo khoản 1 Điều 110 Hiến pháp năm 2013 thì các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được phân định như sau:
“Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
Tỉnh chia thành huyện, thị xã và thành phố thuộc tỉnh; thành phố trực thuộc trung ương chia thành quận, huyện, thị xã và đơn vị hành chính tương đương;
Huyện chia thành xã, thị trấn; thị xã và thành phố thuộc tỉnh chia thành phường và xã; quận chia thành phường.
Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do Quốc hội thành lập”.
Thực hiện các Kết luận của Bộ Chính trị (Kết luận số 126-KL/TW, Kết luận số 127-KL/TW, Kết luận số 130-KL/TW) về chủ trương xây dựng mô hình tổ chức chính quyền địa phương 02 cấp (cấp tỉnh và cấp cơ sở, không tổ chức cấp huyện), dự thảo Nghị quyết sửa đổi, một số điều của Hiến pháp năm 2013 đã có những điều chỉnh cụ thể.
Hiện nay, Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2025 vẫn quy định chính quyền địa phương gồm 03 cấp là cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã. Tuy nhiên, Luật Tổ chức chính quyền địa phương (sửa đổi) được Bộ Nội vụ đưa ra lấy ý kiến đã có những điều chỉnh thích hợp. Theo đó, Điều 1 dự thảo lần thứ 4 Luật Tổ chức chính quyền địa phương (sửa đổi) quy định:
“1. Đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam gồm có:
a) Tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh);
b) Huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp huyện);
c) Xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã);
d) Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do Quốc hội quyết định thành lập.
2. Tùy theo điều kiện địa lý, dân cư, yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, các đảo, quần đảo là đơn vị hành chính cấp huyện có thể không tổ chức đơn vị hành chính cấp xã”.
Với quy định này, có thể thấy, đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam gồm tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (cấp cơ sở). Do đó, quy định tại khoản 1 Điều 110 là chưa thật sự hợp lý bởi đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chỉ có một nên không thể sử dụng thuật ngữ “các đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương”.
Hiện nay, khoản 8 Điều 74 Hiến pháp năm 2013 quy định “Ủy ban thường vụ Quốc hội điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương”. Quy định trên không sử dụng thuật ngữ “các” với hàm ý là có nhiều đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Do đó, để bảo đảm sự thống nhất về thẩm quyền điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương của Ủy ban thường vụ Quốc hội, tác giả kiến nghị sửa đổi quy định tại khoản 1 Điều 110 tại Điều 1 Dự thảo Nghị quyết: “Các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam gồm tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và các đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương” sẽ được sửa đổi thành “Các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam gồm tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương”.
Hai là, theo khoản 2 Điều 110 Hiến pháp năm 2013 thì “Việc thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính phải lấy ý kiến Nhân dân địa phương và theo trình tự, thủ tục do luật định”. Quy định về việc “phải lấy ý kiến Nhân dân địa phương” đối với việc thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính trong Hiến pháp năm 2013 là một điểm tiến bộ so với các bản Hiến pháp trước đây vì thể hiện tư duy gần dân, trọng dân. Tuy nhiên, dự thảo Nghị quyết đã bỏ quy định này. Việc bỏ quy định “phải lấy ý kiến Nhân dân địa phương” đối với việc thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính cần phải cân nhắc thấu đáo.
Trên thế giới, lấy ý kiến của Nhân dân được chia thành hai loại là lấy ý kiến nhân dân mang tính quyết định (gọi là trưng cầu ý dân) và lấy ý kiến nhân dân có tính chất tham vấn. Nếu như trưng cầu ý dân dẫn tới hệ quả tất yếu là chính quyền phải thực hiện theo đúng kết quả bỏ phiếu thì lấy ý kiến nhân dân có tính chất tham vấn dẫn tới hệ quả là chính quyền vẫn là chủ thể ra quyết định cuối cùng sau khi xem xét các ý kiến từ cuộc tham vấn.
Theo Luật Trưng cầu ý dân năm 2015 thì “trưng cầu ý dân là việc Nhà nước tổ chức để cử tri cả nước trực tiếp biểu quyết bằng hình thức bỏ phiếu quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước”. Trong khi đó, lấy ý kiến của Nnhân dân được quy định trong nhiều văn bản khác nhau như Hiến pháp năm 2013, Luật Thực hiện dân chủ cơ sở năm 2022, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025… nhưng lại chưa có một khái niệm pháp lý rõ ràng.
Trưng cầu ý dân và lấy ý kiến Nhân dân cùng là hình thức để Nhân dân phát huy quyền dân chủ trực tiếp khi thể hiện ý kiến với Nhà nước. Tuy nhiên, giữa trưng cầu ý dân và lấy ý kiến Nhân dân vẫn có sự khác biệt về nội dung, hình thức và giá trị pháp lý:
Về nội dung, vấn đề đưa ra trưng cầu ý dân là những vấn đề quan trọng của đất nước, có phạm vi toàn quốc và do Quốc hội quyết định. Trong khi đó, vấn đề được lấy ý kiến nhân dân rất đa dạng và thuộc thẩm quyền của nhiều cơ quan. Theo Điều 11 Luật Thực hiện dân chủ cơ sở năm 2022 thì cơ quan có thẩm quyền phải lấy ý kiến Nhân dân về những vấn đề như: dự thảo kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; dự thảo đề án thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính, đặt tên, đổi tên đơn vị hành chính; dự thảo quyết định hành chính của Ủy ban nhân dân cấp xã có liên quan đến lợi ích cộng đồng…
Về hình thức, trong trưng cầu ý dân, Nhân dân thể hiện ý chí của mình thông qua việc bỏ phiếu kín, còn trong việc lấy ý kiến Nhân dân thì các hình thức để người dân thể hiện ý chí thường linh hoạt hơn. Theo Điều 26 Luật Thực hiện dân chủ cơ sở năm 2022 thì việc lấy ý kiến nhân dân có thể thực hiện thông qua các hình thức hội nghị trao đổi, đối thoại; phát phiếu lấy ý kiến; lấy ý kiến thông qua cổng thông tin điện tử…
Về giá trị pháp lý, trưng cầu ý dân có giá trị quyết định, tức là Nhà nước đưa một vấn đề quan trọng để Nhân dân trực tiếp quyết định thông qua việc bỏ phiếu. Trong khi đó, đối với lấy ý kiến của Nhân dân thì ý kiến của người dân chỉ mang tính chất tham khảo với cơ quan nhà nước.
Trong hoạt động lấy ý kiến của Nhân dân thì quyết định của các cơ quan nhà nước vẫn là quyết định có giá trị cuối cùng. Tuy nhiên, không phải vì thế mà các ý kiến của Nhân dân không được quan tâm và tiếp thu. Không phải ngẫu nhiên mà Hiến pháp năm 2013 - văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất hai lần nhắc đến thuật ngữ “lấy ý kiến Nhân dân” (khoản 2 Điều 110 và khoản 3 Điều 120). Thuật ngữ “lấy ý kiến Nhân dân” được nhắc đến trong Hiến pháp năm 2013 có ý nghĩa quan trọng là Nhà nước muốn được Nhân dân cho ý kiến về một vấn đề, xem xét ý kiến tư vấn đó để ra quyết định cuối cùng.
Các cơ quan nhà nước phải tạo các kênh khác nhau để ý chí Nhân dân được phản ánh vào quá trình quyết định chính sách, pháp luật. Một trong những giải pháp quan trọng nhằm bảo đảm tính khả thi trong quyết sách của cơ quan nhà nước là phải tạo điều kiện để đông đảo Nhân dân tham gia đóng góp ý kiến. Đơn cử, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 quy định khi ban hành văn bản quy phạm pháp luật, cơ quan chủ trì soạn thảo phải lấy ý kiến Nhân nhân là những người chịu sự tác động trực tiếp của dự thảo văn bản pháp luật. Thông qua việc đóng góp ý kiến đối với các dự thảo văn bản pháp luật, Nhân dân được trực tiếp tham gia thảo luận, xây dựng pháp luật, từ đó có cơ hội bày tỏ thái độ, quan điểm của mình trước Nhà nước. Khi còn ở giai đoạn dự thảo, nếu Nhân dân được tham gia đóng góp ý kiến để góp phần điều chỉnh lợi ích của mình thì khi đã ban hành thành văn bản pháp luật chính thức, họ sẽ tự nguyện thực hiện văn bản này. Từ đó, văn bản pháp luật sẽ được thực thi một cách hiệu quả mà không cần phải tốn kém cho công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, thuyết phục để đưa văn bản pháp luật vào cuộc sống.
Nhìn chung, việc tham gia đóng góp ý kiến của Nhân dân đối với các dự thảo đề án, phương án, văn bản là đòi hỏi mang tính khách quan. Điều 2 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân”. Như vậy, Nhân dân thực hiện quyền lực của mình bằng cách tham gia vào các công việc của Nhà nước, trong đó có việc tham gia đóng góp ý kiến về các dự thảo đề án, phương án, văn bản. Việc đóng góp ý kiến của nhân dân sẽ mang lại lợi ích to lớn, vì thông qua đó, cơ quan soạn thảo có điều kiện tính toán, cân nhắc để từ đó có những điều chỉnh kịp thời. Hơn nữa, thông qua việc tiếp nhận các ý kiến đóng góp, cơ quan soạn thảo có thể huy động được trí tuệ tập thể vào việc hình thành các chính sách đúng đắn. Việc tăng cường lấy ý kiến Nhân dân trong quá trình xây dựng dự thảo không chỉ góp phần nâng cao chất lượng nội dung dự thảo, mà còn tăng cường tính công khai, minh bạch của chính sách, pháp luật. Từ đó, Nhân dân có thể biết được chính sách, pháp luật ngay trong quá trình soạn thảo. Điều này sẽ tránh được tình trạng cá nhân, tổ chức cảm thấy bỡ ngỡ hay bị áp đặt khi một chính sách, pháp luật được ban hành và có hiệu lực. Do đó, tôi kiến nghị sửa đổi, bổ sung khoản 3 Điều 110 từ “Việc xác định các loại đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và trình tự, thủ tục thành lập, giải thể, nhập, chia đơn vị hành chính, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính do Quốc hội quy định” thành “Việc xác định các loại đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và trình tự, thủ tục thành lập, giải thể, nhập, chia đơn vị hành chính, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính do Quốc hội quy định. Việc thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính phải lấy ý kiến Nhân dân địa phương”.
Về sửa đổi, bổ sung tại khoản 1 Điều 114 Hiến pháp năm 2013 (khoản 7 Điều 1 dự thảo Nghị quyết)
Khoản 7 Điều 1 dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 114 quy định: “Ủy ban nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên”. Về nguyên lý, Hội đồng nhân dân là cơ quan dân cử, còn Ủy ban nhân dân là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân. Do đó, quy định Ủy ban nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu là hợp lý. Tuy nhiên, trong bối cảnh nước ta đang áp dụng chính quyền đô thị thì ở nhiều nơi không tổ chức Hội đồng nhân dân.
Hiện nay, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 131/2020/QH14 ngày 16/11/2020 về tổ chức chính quyền đô thị tại Thành phố Hồ Chí Minh, Nghị quyết số 169/2024/QH15 ngày 30/11/2024 về tổ chức chính quyền đô thị tại thành phố Hải Phòng. Theo Nghị quyết số 131/2020/QH14 thì Thành phố Hồ Chí Minh không thực hiện thí điểm mà tổ chức luôn chính quyền đô thị với mô hình không tổ chức Hội đồng nhân dân tại quận, phường mà chỉ tổ chức Ủy ban nhân dân quận, phường. Theo Nghị quyết số 169/2024/QH15 thì thành phố Hải Phòng cũng tổ chức chính quyền đô thị với mô hình không tổ chức Hội đồng nhân dân quận, phường. Ủy ban nhân dân quận, Ủy ban nhân dân phường thực hiện chức năng quản lý nhà nước trên địa bàn, hoạt động theo chế độ thủ trưởng. Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận do Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố trực thuộc trung ương bổ nhiệm, còn Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường do Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận bổ nhiệm.
Ở những nơi không tổ chức Hội đồng nhân dân thì sẽ không có chủ thể bầu ra Ủy ban nhân dân. Do đó, nếu khoản 1 Điều 114 không quy định ngoại lệ về việc thành lập Ủy ban nhân dân khi không tổ chức Hội đồng nhân dân là một sự thiếu sót và các nghị quyết về tổ chức chính quyền đô thị dễ rơi vào tình trạng vi phạm hiến pháp. Do đó, tác giả kiến nghị quy định ngoại lệ khi sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 114 như sau: “Ủy ban nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên. Trường hợp chính quyền đô thị không tổ chức Hội đồng nhân dân thì việc thành lập Ủy ban nhân dân được Quốc hội quy định trong nghị quyết”.
Về sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 115 Hiến pháp năm 2013 (khoản 8 Điều 1 dự thảo Nghị quyết)
Khoản 2 Điều 115 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Đại biểu Hội đồng nhân dân có quyền chất vấn Chủ tịch Ủy ban nhân dân, các thành viên khác của Ủy ban nhân dân, Chánh án Tòa án nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Thủ trưởng cơ quan thuộc Ủy ban nhân dân”.
Trong bối cảnh các nguồn lực đều có giới hạn và số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân không thể tăng thêm thì cần tập trung giám sát cũng như chất vấn Chủ tịch Ủy ban nhân dân và các thành viên khác của Ủy ban nhân dân. Đối với Chánh án Tòa án nhân dân và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thì sự chất vấn không phải là ưu tiên hàng đầu. Theo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2024 thì Chánh án Tòa án nhân dân phải chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Chánh án Tòa án nhân dân cấp trên. Các bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án nhân dân có thể bị Tòa án nhân dân cấp trên xem xét phúc thẩm. Khi các bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật thì vẫn chịu sự kiểm tra của Tòa án nhân dân cấp trên, thậm chí còn có thể được xem xét lại theo thủ tục đặc biệt là giám đốc thẩm, tái thẩm. Trong tổ chức và hoạt động, Tòa án nhân dân chịu sự thanh tra, kiểm tra nghiệp vụ cũng như thực hiện biên chế, quản lý cán bộ từ Tòa án nhân dân tối cao nhằm bảo đảm việc tuân thủ pháp luật[2]. Tương tự, Viện kiểm sát nhân dân cũng chịu sự thanh tra, kiểm tra từ phía nhiều chủ thể, bản thân Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân phải báo cáo công tác và chịu trách nhiệm trước Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp trên[3]. Do đã có nhiều chủ thể thanh tra, kiểm tra đối với Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân nên việc giám sát của Hội đồng nhân dân và chất vấn của Đại biểu Hội đồng nhân dân có thể không cần phải đặt nặng. Một trong những nguyên nhân dẫn đến hiệu quả hoạt động không cao của Hội đồng nhân dân là tình trạng “ôm đồm”, dẫn đến dàn trải[4]. Do đó, thay vì dàn trải giám sát cả Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Hội đồng nhân dân cần tập trung nhân lực, vật lực giám sát Chủ tịch Ủy ban nhân dân, các thành viên khác của Ủy ban nhân dân. Do đó, dự thảo Nghị quyết không quy định cho đại biểu Hội đồng nhân dân có quyền chất vấn Chánh án Tòa án nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân là một sự tiến bộ.
Tuy nhiên, dự thảo Nghị quyết sửa đổi khoản 2 Điều 115 quy định: “Đại biểu Hội đồng nhân dân có quyền chất vấn Chủ tịch Ủy ban nhân dân, các thành viên khác của Ủy ban nhân dân và người đứng đầu cơ quan thuộc Ủy ban nhân dân” vẫn cần phải được điều chỉnh. Như vậy, ngoài Chủ tịch Ủy ban nhân dân, đại biểu Hội đồng nhân dân còn có quyền chất vấn “các thành viên khác của Ủy ban nhân dân” và “người đứng đầu cơ quan thuộc Ủy ban nhân dân”.
Theo Điều 37 Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2025 thì các thành viên khác của Ủy ban nhân dân bao gồm Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân và các Ủy viên. Trước đây, Điều 20 và Điều 41 Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2019) quy định Ủy viên Ủy ban nhân dân cấp tỉnh gồm các Ủy viên là người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Ủy viên phụ trách quân sự, Ủy viên phụ trách công an. Như vậy, Ủy viên Ủy ban nhân dân cấp tỉnh sẽ có hai tư cách: vừa là thành viên Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, vừa là người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Tương tự, Ủy viên Ủy ban nhân dân cấp huyện cũng sẽ có hai tư cách: vừa là thành viên Ủy ban nhân dân cấp huyện, vừa là người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện. Hiện nay, tuy Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2025 không có quy định cụ thể về vấn đề này nhưng vẫn “ngụ ý” người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân sẽ là Ủy viên Ủy ban nhân dân cùng cấp. Cụ thể, khoản 4 Điều 37 Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2025 quy định: “Chính phủ quy định trình tự, thủ tục đề nghị Hội đồng nhân dân bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Ủy viên Ủy ban nhân dân, bảo đảm liên thông, kết nối với thủ tục bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức người đứng đầu cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân”. Việc Hội đồng nhân dân bầu Ủy viên Ủy ban nhân dân phải bảo đảm tính liên thông, kết nối với thủ tục bổ nhiệm người đứng đầu cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân. Điều này đã phần nào thể hiện rõ “ý định” của nhà làm luật là Hội đồng nhân dân bầu Ủy viên Ủy ban nhân dân, rồi sau đó, Chủ tịch Ủy ban nhân dân sẽ bổ nhiệm người đứng đầu cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân, bảo đảm tính liên thông, kết nối.
Như vậy, có thể khẳng định, theo các quy định pháp luật hiện hành, người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân sẽ là Ủy viên Ủy ban nhân dân cùng cấp (giám đốc các Sở phải là Ủy viên Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, trưởng các phòng phải là Ủy viên Ủy ban nhân dân huyện). Do đó, quy định đại biểu Hội đồng nhân dân còn có quyền chất vấn người đứng đầu cơ quan thuộc Ủy ban nhân dân là không cần thiết bởi có sự trùng lặp nội hàm với quy định đại biểu Hội đồng nhân dân còn có quyền chất vấn các thành viên khác của Ủy ban nhân dân.
Do đó, tác giả kiến nghị sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 115 như sau: “Đại biểu Hội đồng nhân dân có quyền chất vấn Chủ tịch Ủy ban nhân dân, các thành viên khác của Ủy ban nhân dân”.
TS. Cao Vũ Minh
Trường Đại học Kinh tế - Luật, Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh