1. Đánh giá cán bộ được coi là một nội dung quan trọng của công tác quản lý cán bộ ở nhiều nước trên thế giới, ở cả khu vực công và khu vực doanh nghiệp. Phương pháp, quy trình đánh giá cán bộ ở mỗi nước, mỗi cơ quan, tổ chức khác nhau có khác nhau tùy vào quan điểm, cách tiếp cận, đặc điểm nền hành chính và mục đích, yêu cầu đánh giá. Kết quả của quá trình đánh giá cán bộ được sử dụng để bố trí, sử dụng cán bộ hợp lý, hiệu quả và là cơ sở thực hiện các chế độ, chính sách đối với cán bộ. “Nếu đánh giá đúng, bố trí đúng người, đúng việc làm sẽ nhân thêm sức mạnh của tổ chức, cán bộ phát huy được sở trường, phẩm chất, năng lực của mình. Ngược lại nếu đánh giá không đúng sẽ dẫn đến bố trí, sử dụng sai gây ra tâm tư, thắc mắc, ảnh hưởng đến đoàn kết nội bộ, làm mai một động lực phấn đấu, phát triển. Làm mất lòng tin, thui chột tài năng của cán bộ, ảnh hưởng nghiêm trọng đến bản thân cán bộ và tổ chức”[1]. Vì vậy, đánh giá đúng cán bộ có vai trò quan trọng trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ có năng lực, trình độ, góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả thực hiện nhiệm vụ của các cơ quan, đơn vị.
Ngay từ khi mới thành lập nước, Đảng, Nhà nước và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng công tác đánh giá cán bộ, coi đây là một khâu then chốt trong công tác cán bộ. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, việc đánh giá cán bộ trước hết thuộc về Đảng. Bởi vì, Đảng ta là Đảng cầm quyền. Đảng là người lãnh đạo, tổ chức toàn bộ quá trình cách mạng. Vì vậy, cơ quan quản lý cán bộ, cấp uỷ quản lý đảng viên có thẩm quyền. Cán bộ cấp trên đánh giá cán bộ cấp dưới; thủ trưởng đánh giá nhân viên. Quần chúng đánh giá cán bộ, đảng viên. Cán bộ, đảng viên và cấp uỷ đánh giá quần chúng. Sự đánh giá đó là nhiều chiều, nhiều mối quan hệ qua lại để có những nhận xét, đánh giá xác đáng. Trong "sửa đổi lối làm việc" viết vào tháng 10/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: "Từ trước đến nay, Đảng ta chưa thực hành một cách thường xuyên xem xét cán bộ. Đó là một khuyết điểm to". Như vậy, Đảng không thể không đánh giá cán bộ một cách thường xuyên liên tục. Đồng thời, Đảng không đánh giá cán bộ là Đảng mắc phải khuyết điểm lớn. Người yêu cầu Đảng phải "nuôi dạy" cán bộ cho tốt, không nên "nuông chiều" hoặc "bỏ mặc cán bộ". Đánh giá cán bộ thuộc về trách nhiệm của chính đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp uỷ các cấp. Đánh giá cán bộ phải là người đủ tư cách, có trách nhiệm, có lương tâm. Người làm công tác tổ chức, đánh giá cán bộ thì trước tiên phải biết tự đánh giá mình một cách đúng đắn. Bởi vì có một lôgic và biện chứng: "Nếu không biết sự phải trái ở mình thì chắc không thể nhận rõ cán bộ tốt hay xấu". Người đã vạch ra và phê phán một số chứng bệnh của cán bộ lãnh đạo khi đánh giá cán bộ cấp dưới như: Tự cao tự đại, ưa phỉnh nịnh, đem lòng yêu, ghét hoặc hẹp hòi, ích kỷ cá nhân mà gán ghép cho mọi người. Vậy, muốn đánh giá đúng cán bộ, người cán bộ lãnh đạo cấp trên phải biết tự sửa mình trước để hoàn thiện mình; và khi người lãnh đạo càng ít khuyết điểm thì cách xem xét cán bộ càng đúng đắn.
Thể chế hóa đường lối của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh, đánh giá cán bộ bước đầu được quy định trong Pháp lệnh Cán bộ, công chức năm 1998. Tiếp đó được cụ thể hóa trong Luật Cán bộ, công chức năm 2008, Luật Viên chức năm 2012. Thực hiện 02 luật này, Chính phủ đã ban hành quy định hướng dẫn quy trình đánh giá cán bộ, công chức, viên chức tại Nghị định số 24/2010/NĐ-CP ngày 15/3/2010 quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức và Nghị định số 29/2012/NĐ-CP ngày 12/4/2012 về tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức, sau đó là Nghị định số 56/2015/NĐ-CP ngày 09/6/2015. Nhìn chung các quy định về đánh giá cán bộ công chức được quy định chặt chẽ bài bản hơn.
Tuy nhiên, so với yêu cầu thì công tác đánh giá cán bộ vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu cụ thể:
- Bất cập trong các quy định của Đảng, Nhà nước về đánh giá cán bộ như: Các mức đánh giá, phân loại công chức không thống nhất với các mức đánh giá, phân loại viên chức và quy định chung của Đảng về đánh giá, phân loại cán bộ.
- Quy định về tiêu chí đánh giá tại Nghị định số 56/2015/NĐ-CP về đánh giá và phân loại cán bộ, công chức, viên chức và Nghị định số 88/2017/NĐ-CP ngày 27/7/2017 sửa đổi Nghị định số 56/2015/NĐ-CP về đánh giá và phân loại cán bộ, công chức còn chung chung, khó phân định được ranh giới giữa các mức độ đánh giá, đặc biệt là khó xác định thế nào là “hoàn thành nhiệm vụ nhưng còn hạn chế về năng lực” gây lúng túng trong quá trình triển khai.
- Đánh giá cán bộ, công chức gắn trực tiếp đến sinh mạng chính trị của mỗi người nhưng các quy định chưa đầy đủ, toàn diện, dẫn đến: Có tình trạng công chức có đơn yêu cầu người đứng đầu đơn vị thực hiện đánh giá, phân loại lại công chức sau khi nhận được thông báo đánh giá công chức hàng năm. Tuy nhiên, Luật Cán bộ, công chức cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành chưa có quy định về trình tự, thủ tục cũng như về việc kết quả đánh giá lại công chức. Theo quy định tại Điều 7 Nghị định số 56/2015/NĐ-CP ngày 09/6/2015 thì cán bộ, công chức có quyền khiếu nại về kết quả đánh giá công chức theo quy định của pháp luật về khiếu nại. Tuy nhiên, theo quy định của Luật Khiếu nại thì đối với lĩnh vực cán bộ, công chức chỉ quy định khiếu nại và giải quyết khiếu nại quyết định kỷ luật cán bộ, công chức mà không điều chỉnh đối với khiếu nại quyết định hành chính trong nội bộ cơ quan nhà nước. Do đó, hiện nay, chưa có quy định cụ thể để thực hiện quyền khiếu nại về kết quả đánh giá công chức của cán bộ, công chức.
- Các nội dung quy định đánh giá công chức vẫn còn định tính, thiếu định lượng, chưa gắn chặt với kết quả hoàn thành nhiệm vụ của cán bộ, công chức, dẫn đến khó khăn cho quá trình đánh giá công chức. Nhiều chỉ tiêu đánh giá chưa phản ánh được thực chất của quá trình triển khai thực hiện nhiệm vụ, nhất là trong bối cảnh hiện nay đã và đang triển khai các vị trí việc làm thì yêu cầu lượng hóa các chỉ tiêu đánh giá để tính điểm cho công chức càng trở nên khó khăn hơn.
- Từng ngành, từng lĩnh vực chưa cụ thể được một cách đầy đủ các tiêu chí để đánh giá cán bộ, công chức cho phù hợp với từng vị trí, từng nhóm công việc (nhất là những lĩnh vực, công việc đặc thù) nên khó tránh khỏi được việc đánh giá công chức không sát với thực tế, dẫn đến thiếu công bằng và không có tác dụng động viên khuyến khích cán bộ, công chức hoàn thành tốt nhiệm vụ; phê bình, kiểm điểm, thậm chí phải xử lý, loại bỏ những trường hợp chây lười, yếu kém trong công tác, vi phạm phẩm chất đạo đức.
2. Quan điểm và giải pháp để hoàn thiện cơ chế đánh giá cán bộ, công chức của Bộ Tư pháp trong thời gian tới:
Từ khi khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới, Ðảng, Nhà nước ta luôn nhất quán xác định xây dựng Ðảng là nhiệm vụ then chốt. Trong xây dựng Ðảng thì công tác cán bộ là khâu then chốt nhất. Việc đánh giá đúng cán bộ có vai trò rất quan trọng bởi đây là tiền đề, có tác động lớn đến các khâu tiếp theo. Từ thực tiễn đánh giá cán bộ, công chức, viên chức hiện nay, trên cơ sở quan điểm định hướng của Đảng về đổi mới công tác đánh cán bộ tại Nghị quyết số 26-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, có thể đưa ra một số quan điểm, giải pháp để đổi mới công tác đánh giá cán bộ, công chức, viên chức trong thời gian tới của Bộ Tư pháp như sau:
2.1. Về quan điểm
Thứ nhất, quán triệt và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về đánh giá cán bộ, trong đó: (i) Xem xét, đánh giá cán bộ một cách toàn diện. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, việc đánh giá cán bộ phải dựa trên quan điểm toàn diện, tức là yêu cầu phải xem xét đầy đủ các mối liên hệ của sự vật, hiện tượng để có đánh giá đúng. Khi xem xét các mối liên hệ của cán bộ, cần làm rõ bản chất của người cán bộ thông qua ba mối quan hệ cơ bản: Quan hệ với chính mình; quan hệ với nhân dân; quan hệ với Đảng, Nhà nước thông qua cơ quan, đơn vị. Đặc biệt để đánh giá năng lực cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng người cán bộ làm việc phải có sáng kiến, phải luôn kiểm điểm mình để phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt sai lầm khuyết điểm của bản thân, rằng “mỗi cán bộ, mỗi đảng viên, mỗi ngày phải tự kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa chữa như mỗi ngày phải rửa mặt”[2]. Trong quan hệ với Đảng và Nhà nước, người cán bộ phải lấy quan điểm của Đảng làm nền tảng cho mọi hoạt động. Đảng ta là Đảng của nhân dân, vì nhân dân mà phục vụ. Do đó, người cán bộ cần tránh biểu hiện “miệng thì nói dân chủ, nhưng làm việc thì họ theo lối “quan” chủ. Miệng thì nói “phụng sự quần chúng”, nhưng họ làm trái ngược với lợi ích quần chúng, trái ngược với phương châm và chính sách của Đảng và Chính phủ”[3]. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, khi làm bất cứ việc gì, đảng viên và cán bộ phải đặt lợi ích của Đảng lên trước lợi ích của cá nhân, làm việc phải vì lợi ích của dân, phải chịu trách nhiệm trước Đảng, Nhà nước và nhân dân. Việc đánh giá cán bộ phải được thực hiện một cách toàn diện trước khi cất nhắc và trên cơ sở vào tiêu chuẩn cán bộ, các tiêu chí, yêu cầu của công việc. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cán bộ được cất nhắc phải hội đủ bốn tiêu chuẩn cơ bản: Trung thành và hăng hái trong công việc, trong lúc đấu tranh; liên lạc mật thiết với quần chúng, hiểu biết quần chúng; luôn luôn chú ý đến lợi ích nhân dân; luôn luôn giữ đúng kỷ luật; (ii) Xem xét, đánh giá cán bộ trong cả quá trình vận động và phát triển của họ. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, xem xét, đánh giá cán bộ phải linh hoạt, không được bảo thủ, định kiến vì bản thân cán bộ cũng thay đổi suy nghĩ, cách làm. Người lấy ví dụ “có người khi trước theo cách mạng mà nay lại phản cách mạng. Có người khi trước không cách mạng mà nay lại tham gia cách mạng. Thậm chí có người nay đang theo cách mạng, nhưng sau này có thể phản cách mạng. Một người cán bộ khi trước có sai lầm, không phải vì thế mà sai lầm mãi. Cũng có cán bộ đến nay chưa bị sai lầm, nhưng chắc gì sau này không phạm sai lầm? Quá khứ, hiện tại và tương lai của mọi người không phải luôn giống nhau”[4]. (iii) Xem xét, đánh giá cán bộ một cách khách quan. Quan điểm khách quan yêu cầu khi xem xét sự vật, hiện tượng cần phải xuất phát từ chính bản thân sự vật, hiện tượng, không được xuất phát từ ý muốn chủ quan của người đánh giá. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Người ở đời, ai cũng có chỗ tốt và chỗ xấu. Ta phải khéo nâng cao chỗ tốt, khéo sửa chữa chỗ xấu cho họ”. (iv) Xem xét, đánh giá cán bộ phải gắn với thực tiễn, xuất phát từ thực tiễn. Từ thực tiễn hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chia cán bộ ra làm hai loại: “Ai mà hay khoe công việc, hay a dua, tìm việc nhỏ mà làm, trước mặt thì theo mệnh lệnh, sau lưng thì trái mệnh lệnh, hay công kích người khác, hay tự tâng bốc mình, những người như thế, tuy họ làm được việc, cũng không phải cán bộ tốt. Ai cứ cắm đầu làm việc, không ham khoe khoang, ăn nói ngay thẳng, không che giấu khuyết điểm của mình, không ham việc dễ, tránh việc khó, bao giờ cũng kiên quyết làm theo mệnh lệnh của Đảng, vô luận hoàn cảnh thế nào, lòng họ cũng không thay đổi, những người như thế, dù công tác kém một chút cũng là cán bộ tốt”[5]. Muốn đánh giá đúng cán bộ, người làm công tác cán bộ phải thực sự bám sát thực tiễn hoạt động của cán bộ, theo dõi, nhắc nhở, động viên kịp thời.
Thứ hai, quán triệt và triển khai có hiệu quả chủ trương của Đảng về đổi mới việc đánh giá cán bộ trong cơ quan Bộ Tư pháp: Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đã nhấn mạnh việc đổi mới cách lấy phiếu tín nhiệm để đánh giá, nhận xét cán bộ theo hướng mở rộng đối tượng tham gia. Những người không đủ năng lực, không hoàn thành nhiệm vụ, có tín nhiệm thấp cần được sắp xếp phù hợp, có cơ chế để kịp thời thay thế, không chờ hết nhiệm kỳ, hết tuổi công tác. Nghị quyết cũng khẳng định cần tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng, trong đó quy định việc thực hiện lấy phiếu tín nhiệm hằng năm đối với các chức danh lãnh đạo trong cơ quan Ðảng, Nhà nước, đoàn thể. Những người hai năm liền tín nhiệm thấp, không hoàn thành nhiệm vụ cần được xem xét, cho thôi giữ chức vụ, không chờ hết nhiệm kỳ, hết tuổi công tác... Tại Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 26-NQ/TW về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, trong đó xác định một trong các giải pháp quan trọng để tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác cán bộ là: “Ðổi mới công tác đánh giá cán bộ theo hướng: Xuyên suốt, liên tục, đa chiều, theo tiêu chí cụ thể, bằng sản phẩm, thông qua khảo sát, công khai kết quả và so sánh với chức danh tương đương; gắn đánh giá cá nhân với tập thể và kết quả thực hiện nhiệm vụ của địa phương, cơ quan, đơn vị”.
Thứ ba, phải phù hợp với đặc điểm, tính chất công việc của Bộ, Ngành Tư pháp: Liên quan đến vấn đề này, qua nghiên cứu cho thấy “cho đến nay, công tác tư pháp mà Ngành Tư pháp đang đảm nhận mặc dù không phải là việc thực hiện quyền tài phán - xét xử (tư pháp theo nghĩa hẹp), nhưng thực hiện các nhiệm vụ xây dựng và theo dõi thi hành pháp luật, quản lý các hoạt động hành chính tư pháp và bổ trợ tư pháp giúp cho hoạt động xét xử được tiến hành thuận lợi, hiệu quả. Kể từ khi Bộ Tư pháp được thành lập lại (năm 1981) đến nay, công tác tư pháp được quy định cụ thể hơn, ngày càng phát triển, đáp ứng nhu cầu nhiều mặt của đời sống thực tiễn và nhiệm vụ của từng giai đoạn cách mạng. Đặc biệt sau gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới sâu sắc, toàn diện do Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng, Bộ Tư pháp được giao nhiều trọng trách hơn, tổ chức của Ngành Tư pháp cũng từng bước được mở rộng, đội ngũ cán bộ, công chức được tăng cường, vai trò của công tác tư pháp và vị trí của Ngành Tư pháp trong đời sống xã hội ngày càng được khẳng định. Công tác tư pháp hiện đang phản ánh tính thống nhất của quyền lực nhà nước và mối liên hệ chặt chẽ của ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, thể hiện rõ tính chất hành chính - tư pháp trong quản lý nhà nước đối với các hoạt động tư pháp cũng như những hoạt động khác nhằm bảo đảm việc tôn trọng, thi hành Hiến pháp, pháp luật trong mọi mặt của đời sống xã hội”[6]. Hiện nay, Bộ Tư pháp có 35 đơn vị, trong đó có 23 đơn vị quản lý nhà nước và 12 đơn vị sự nghiệp. Tương ứng với chức năng, nhiệm vụ được giao, cơ cấu các đơn vị thuộc Bộ bao gồm các nhóm lĩnh vực:
- Nhóm các đơn vị tham mưu, giúp Bộ trưởng quản lý nhà nước về công tác xây dựng, thi hành pháp luật gồm có 05 đơn vị: Vụ Các vấn đề chung về xây dựng pháp luật, Vụ Pháp luật hình sự - hành chính, Vụ Pháp luật dân sự - kinh tế, Vụ Pháp luật quốc tế, Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật. Các đơn vị này thực hiện chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng quản lý nhà nước về công tác xây dựng pháp luật, thi hành pháp luật, thẩm định các dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật; kiểm soát thủ tục hành chính; kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật.
- Nhóm các đơn vị tham mưu, giúp Bộ trưởng quản lý nhà nước các công tác tư pháp, gồm có 09 đơn vị: Tổng cục Thi hành án dân sự; Vụ Phổ biến, giáo dục pháp luật; Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực; Cục Bổ trợ tư pháp; Cục Trợ giúp pháp lý; Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm; Cục Con nuôi; Cục Bồi thường nhà nước; Cục Quản lý xử lý vi phạm hành chính và theo dõi thi hành pháp luật. Các đơn vị này thực hiện chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng thực hiện quản lý nhà nước về các lĩnh vực phổ biến, giáo dục pháp luật, thi hành án dân sự, hành chính tư pháp (hộ tịch, quốc tịch, chứng thực, trợ giúp pháp lý, đăng ký giao dịch bảo đảm, nuôi con nuôi, bồi thường nhà nước), bổ trợ tư pháp (công chứng, giám định tư pháp, luật sư và tư vấn pháp luật, trọng tài thương mại, bán đấu giá tài sản...) và quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.
- Nhóm các đơn vị tham mưu, giúp Bộ trưởng quản trị nội bộ của Bộ, Ngành Tư pháp gồm có 08 đơn vị: Văn phòng Bộ, Thanh tra Bộ, Vụ Hợp tác quốc tế, Vụ Tổ chức cán bộ, Vụ Kế hoạch - Tài chính, Vụ Thi đua - Khen thưởng, Cục Công nghệ thông tin, Cục Công tác phía Nam. Nhóm các đơn vị này chủ yếu thực hiện chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng quản lý các vấn đề về nội bộ, bảo đảm các điều kiện cho hoạt động của Bộ, Ngành Tư pháp về tổ chức cán bộ, thanh tra, kế hoạch - tài chính, thi đua - khen thưởng...
- Nhóm các đơn vị sự nghiệp gồm 12 đơn vị: Bao gồm Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia, Viện Khoa học pháp lý, nhóm các đơn vị sự nghiệp báo chí, xuất bản của Bộ (Nhà Xuất bản Tư pháp, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Báo Pháp luật Việt Nam) và nhóm các đơn vị sự nghiệp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ (Trường Đại học Luật Hà Nội, Học viện Tư pháp, Trường Trung cấp Luật Buôn Ma Thuột, Trường Trung cấp Luật Thái Nguyên, Trường Trung cấp Luật Vị Thanh, Trường Trung cấp Luật Đồng Hới, Trường Trung cấp Luật Tây Bắc).
Ngoài ra, thực hiện Quy định số 215- QĐ/TW ngày 05/12/2013 của Ban Bí thư về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của đảng ủy cấp trên trực tiếp tổ chức cơ sở đảng thuộc Đảng bộ Khối các cơ quan Trung ương, Đảng ủy Bộ Tư pháp đã thành lập Văn phòng Đảng – Đoàn thể của Bộ Tư pháp (đơn vị tương đương cấp Vụ) là đầu mối sinh hoạt hành chính của cán bộ chuyên trách công tác đảng, đoàn thể. Chánh Văn phòng Đảng – Đoàn thể tương đương Vụ trưởng của Vụ thuộc Bộ.
Trong các nhóm trên, mỗi nhóm lại có nhiều vị trí, yêu cầu và các công chức, viên chức, người lao động khác nhau nên đòi hỏi việc đánh giá công chức và bộ tiêu chí đánh giá công chức, viên chức khác nhau. Vì vậy, cần định hướng để đưa ra các tiêu chí đánh giá cán bộ sát với từng nhóm công việc.
2.2. Giải pháp
Một là, đề nghị cấp có thẩm quyền tiếp tục hoàn thiện thể chế về đánh giá cán bộ, công chức viên chức làm cơ sở cho việc triển khai thống nhất trong các cơ quan, ban, ngành.
Hiện nay, cơ sở quan trọng để triển khai công tác đánh giá cán bộ, công chức, viên chức là Luật Cán bộ, công chức, Luật Viên chức và Nghị định số 56/2015/NĐ-CP. Tuy nhiên, các quy định này đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, không còn phù hợp với định hướng đổi mới công tác đánh giá cán bộ, công chức, viên chức hiện nay. Vì vậy, việc sửa đổi, bổ sung các văn bản này là rất cần thiết. Trong đó, cần tập trung vào các quy định sau:
- Về nội dung đánh giá: Cần quy định chi tiết hơn các tiêu chí đánh giá và gắn với khung năng lực vị trí việc làm cụ thể và kết quả chương trình, kế hoạch công tác năm của từng cá nhân hoặc từng cơ quan, đơn vị (trường hợp người được đánh giá là người đứng đầu cơ quan, đơn vị). Các bộ, ngành, địa phương cần đẩy nhanh việc xây dựng Đề án vị trí việc làm, trong đó xác định cụ thể về khung năng lực đối với từng vị trí. Trên cơ sở xác định chức trách, nhiệm vụ của công chức, viên chức có thể quy định chi tiết các tiêu chí đánh giá đối với công chức, viên chức phù hợp với yêu cầu vị trí việc làm.
- Về phương pháp đánh giá: Trên cơ sở các tiêu chí đã lượng hóa được, nên đánh giá theo phương pháp chấm điểm. Theo phương pháp chấm điểm, các tiêu chí đánh giá được chia theo thang điểm 100 và căn cứ vào mức điểm đó thì công chức, viên chức được phân loại vào các mức cụ thể. Phương pháp chấm điểm có ưu điểm là có kết quả rõ ràng và có thể so sánh giữa các công chức, viên chức với nhau. Nhưng việc xây dựng khung tiêu chí và thang điểm như thế nào là rất khó vì tính chất, công việc của mỗi vị trí việc làm là khác nhau. Để đảm bảo khách quan, công bằng và đánh giá đúng cán bộ, khung tiêu chí cần đảm bảo các yêu cầu sau:
+ Đối với các tiêu chí giống nhau thì thang điểm phải giống nhau. Ví dụ như tiêu chí về chấp hành đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước; tiêu chí về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, tác phong
+ Đối với các chức danh tương đương thì khung tiêu chí đánh giá phải giống nhau; đối với người đứng đầu phải có khung tiêu chí riêng.
+ Cơ cấu khung tiêu chí cần đảm bảo tỷ lệ 30:70. Trong đó, 70 điểm là về năng lực, trình độ, kết quả thực hiện nhiệm vụ; 30 điểm là các tiêu chí còn lại.
- Về trách nhiệm, thẩm quyền đánh giá: Bên cạnh việc quy định người có thẩm quyền đánh giá là người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc người đứng đầu cơ quan, tổ chức cấp trên quản lý trực tiếp thực hiện (đối với người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị), cần quy định mở rộng các chủ thể tham gia vào quá trình đánh giá cán bộ, công chức, viên chức. Ví dụ: Đối với Cục trưởng thuộc Bộ thì phải có đánh giá của một hoặc một số Cục trưởng thuộc Bộ khác (là người cùng chức danh), có đánh giá của Giám đốc Sở (đơn vị chịu quản lý của Cục) và có đánh giá của các bộ, ngành khác hoặc Thủ trưởng đơn vị khác thuộc Bộ (đơn vị có quan hệ phối hợp công tác). Tuy nhiên, để đảm bảo nguyên tắc tập trung, nên quy định các ý kiến đánh giá này có giá trị tham khảo.
Ngoài ra, nên có quy định về thẩm quyền đánh giá của cơ quan/đơn vị/bộ phận tham mưu về công tác cán bộ đối với cán bộ, công chức, viên chức trong trường hợp người được đánh là Thủ trưởng của cơ quan, đơn vị.
- Về quy trình đánh giá:
Việc sửa đổi quy trình đánh giá cần đảm bảo các nguyên tắc sau:
+ Các chủ thể tham gia đánh giá cần thực hiện đánh giá độc lập để tránh ảnh hưởng tâm lý trong quá trình đánh giá.
+ Phải đảm bảo tính công khai, minh bạch trong quá trình đánh giá.
+ Đảm bảo kiểm soát quyền lực của người có thẩm quyền đánh giá. Điều đó có nghĩa là, phải có sự tham gia ý kiến của tập thể đối với kết quả đánh giá và ý kiến của cá nhân người được đánh giá đối với kết quả đánh giá của mình.
- Về phân loại kết quả đánh giá:
+ Cần thống nhất các quy định về mức phân loại đối với cán bộ, công chức, viên chức. Trong đó, sửa mức phân loại đánh giá đối với cán bộ, công chức “hoàn thành nhiệm vụ nhưng năng lực còn hạn chế” là hoàn thành nhiệm vụ.
+ Cần quy định hạn chế số lượng đánh giá hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, hoàn thành tốt nhiệm trong cùng một cơ quan, đơn vị để tránh tình trạng cào bằng như hiện nay (quy định số lượng tối đa được đánh giá hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ là 15% tổng số công chức, viên chức được đánh giá, phân loại của đơn vị).
+ Quy định rõ kết quả phân loại, đánh giá là căn cứ quan trọng để thực hiện các chế độ, chính sách khác. Để làm được điều này, các quy định về đánh giá cán bộ phải đồng bộ, thống nhất với các quy định về công tác cán bộ khác như bổ nhiệm, quy hoạch, luân chuyển, đào tạo, bồi dưỡng, khen thưởng, kỷ luật, nâng lương, tinh giản biên chế.
Ví dụ như đối với công tác bổ nhiệm: Mặc dù Nghị định số 56/2015/NĐ-CP quy định kết quả đánh giá công chức, viên chức hàng năm là căn cứ để thực hiện bổ nhiệm cán bộ. Tuy nhiên, hiện nay các quy định về bổ nhiệm không quy định việc sử dụng kết quả đánh giá hàng năm làm căn cứ bổ nhiệm mà việc đánh giá thực hiện riêng theo mẫu và không có quy định cụ thể về quy trình đánh giá cán bộ khi bổ nhiệm. Vì vậy, để kết quả phân loại, đánh giá thực sự là căn cứ cho công tác bổ nhiệm thì khi quy định các tiêu chuẩn bổ nhiệm cần quy định cụ thể về kết quả đánh giá phân loại để làm căn cứ bổ nhiệm (chẳng hạn là tiêu chuẩn phải có 03 năm gần nhất được đánh giá là hoàn thành tốt nhiệm vụ), không nên quy định việc đánh giá riêng phục vụ công tác bổ nhiệm như hiện nay.
Hai là, cần nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trực tiếp làm công tác đánh giá cán bộ. Thực tế hiện nay, trình độ, năng lực của đội ngũ làm công tác đánh giá cán bộ, công chức, viên chức ở các Bộ, ngành, địa phương là không đồng đều và nhiều người chưa được đào tạo về nghiệp vụ quản lý cán bộ trong đó có công tác đánh giá cán bộ. Vì vậy, việc bồi dưỡng các kiến thức cơ bản về đánh giá cán bộ cũng như các kinh nghiệm, các tình huống thực tế, cách xác định các tiêu chí cụ thể để đánh giá cán bộ ở các bộ, ngành, địa phương và của các nước khác là rất cần thiết. Qua đó nâng cao nhận thức và năng lực tham mưu của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trực tiếp làm công tác đánh giá cán bộ; là nhân tố quan trọng giúp cho việc đổi mới công tác đánh giá cán bộ đạt hiệu quả cao nhất.
Ba là, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác đánh giá cán bộ, công chức, viên chức. Hiện nay, việc ứng dụng công tin đã thực hiện trong nhiều hoạt động của các cơ quan nhà nước như quản lý văn bản đi, đến, giao việc, báo cáo, tổng hợp, thủ tục hành chính một cửa... Nhưng các ứng dụng này chưa có sự liên thông với nhau và nhiều cơ quan, đơn vị còn chưa chủ động trong việc sử dụng các phần mềm vào thực hiện nhiệm vụ, công vụ nên việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động công vụ còn nhiều hạn chế. Do đó, để đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác đánh giá cán bộ công chức, viên chức hiện nay cần có giải pháp tổng thể đối với ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý quá trình giải quyết công việc và kết quả công việc để làm cơ sở cho việc đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ của cán bộ, công chức, viên chức.
Bốn là, xây dựng khung tiêu chí đánh giá đối với các nhóm công chức, viên chức của các đơn vị thuộc Bộ theo vị trí việc làm gồm:
- Khung tiêu chí đánh giá đối với công chức làm công tác xây dựng pháp luật (tại Vụ Pháp luật hình sự - hành chính, Vụ Pháp luật dân sự - kinh tế, Vụ Các vấn đề chung về xây dựng pháp luật và Vụ Pháp luật quốc tế) gồm có 02 khung: (i) Dành cho công chức làm lãnh đạo, quản lý; (ii) Dành cho công chức không giữ chức vụ.
- Khung tiêu chí đánh giá đối với công chức làm công tác kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật và công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực tư pháp (tại Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật; Cục Bổ trợ tư pháp; Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực; Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm; Cục Trợ giúp pháp lý; Cục Quản lý xử lý vi phạm hành chính và theo dõi thi hành pháp luật; Cục Con nuôi; Tổng cục Thi hành án dân sự; Vụ Phổ biến, giáo dục pháp luật) có 02 khung: (i) Dành cho công chức làm lãnh đạo, quản lý; (ii) Dành cho công chức không giữ chức vụ.
- Khung tiêu chí đánh giá đối với công chức làm công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo của Bộ Tư pháp (tại Thanh tra Bộ và Tổng cục Thi hành án dân sự) có 02 khung: (i) Dành cho công chức làm lãnh đạo, quản lý; (ii) Dành cho công chức không giữ chức vụ.
- Khung tiêu chí đánh giá đối với công chức, người lao động làm công tác quản trị nội bộ, hỗ trợ phục vụ của các đơn vị quản lý nhà nước thuộc Bộ Tư pháp (tại Văn phòng Bộ, Vụ Tổ chức cán bộ, Cục Công tác phía Nam, Vụ Hợp tác quốc tế và vị trí việc làm hỗ trợ, phục vụ ở các đơn vị khác thuộc Bộ). Có 03 khung: (i) Dành cho công chức làm lãnh đạo, quản lý; (ii) Dành cho công chức không giữ chức vụ; (iii) Dành cho người lao động hợp đồng không xác định thời hạn theo Nghị định số 68/2000/NĐ-CP ngày 17/11/2000 của Chính phủ.
- Khung tiêu chí đánh giá đối với viên chức làm công tác nghiên cứu khoa học tại Bộ Tư pháp (tại Viện Khoa học pháp lý). Có 02 khung: (i) Dành cho viên chức làm lãnh đạo, quản lý; (ii) Dành cho viên chức không giữ chức vụ.
- Khung tiêu chí đánh giá đối với viên chức làm biên tập viên, phóng viên thuộc Bộ Tư pháp (tại Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Nhà xuất bản Tư pháp, Báo Pháp luật Việt Nam). Có 02 khung: (i) Dành cho viên chức làm lãnh đạo, quản lý; (ii) Dành cho viên chức không giữ chức vụ.
- Khung tiêu chí đánh giá đối với viên chức, người lao động ở các vị trí khác tại các đơn vị sự nghiệp thuộc và trực thuộc Bộ Tư pháp: (i) Dành cho viên chức làm lãnh đạo, quản lý; (ii) Dành cho viên chức không giữ chức vụ.
Đây là cơ sở quan trọng cho việc thực hiện tốt công tác đánh giá công chức, viên chức và người lao động của Bộ Tư pháp - khâu đầu tiên của công tác cán bộ, khắc phục tồn tại, hạn chế, nâng cao chất lượng đánh giá cán bộ, làm cơ sở, nền tảng quan trọng cho việc thực hiện tốt các khâu tiếp theo của công tác cán bộ như bố trí, sắp xếp, đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm… từ đó, góp phần quan trọng tạo nên đội ngũ công chức, viên chức có chất lượng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ ngày càng cao của Bộ, Ngành Tư pháp trong giai đoạn hiện nay./.
TS. Nguyễn Quang Thái
Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ, Bộ Tư pháp
[1] Lê Thị Tình, Trường Chính trị tỉnh Gia Lai: Đánh giá cán bộ theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII của Đảng; Nguồn: http://www.tapchicongsan.org.vn.
[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 5, tr. 279.
[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 176.
[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 317 - 318.
[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 318.
[6] Ngành Tư pháp Việt Nam - 70 năm xây dựng và phát triển;
Nguồn: http://www.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/lich-su-phat-trien-nganh.