Thứ bảy 14/06/2025 02:41
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp địa phương

Những năm qua, để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, sự cố gắng, nỗ lực của toàn ngành, hệ thống các cơ quan tư pháp trong cả nước đã từng bước được củng cố và kiện toàn.

Những năm qua, để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, sự cố gắng, nỗ lực của toàn ngành, hệ thống các cơ quan tư pháp trong cả nước đã từng bước được củng cố và kiện toàn. Các cơ quan tư pháp địa phương đã khẳng định được vị trí, vai trò trong hệ thống cơ quan nhà nước và trong đời sống xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp địa phương cũng đã bộc lộ những hạn chế nhất định cần phải hoàn thiện, đặc biệt là trước yêu cầu đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị.

1. Khái quát mô hình tổ chức cơ quan tư pháp địa phương và yêu cầu hoàn thiện

1.1. Khái quát về cơ quan tư pháp địa phương

Trên cơ sở Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức chính quyền địa phương và các văn bản pháp luật về tổ chức bộ máy nhà nước, ngày 22/12/2014, Bộ Tư pháp và Bộ Nội vụ đã ban hành Thông tư liên tịch số 23/2014/TTLT-BTP-BVN hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Tư pháp thuộc Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và Phòng Tư pháp thuộc UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi là Thông tư liên tịch số 23/2014/TTLT-BTP-BNV). Thông tư liên tịch này đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng để các địa phương kiện toàn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy, biên chế các cơ quan tư pháp. Theo đó, vị trí, vai trò của Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp được xác định như sau:

- Theo khoản 1 Điều 1 của Thông tư, Sở Tư pháp là cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là UBND cấp tỉnh), thực hiện chức năng tham mưu, giúp UBND cấp tỉnh quản lý nhà nước về: Công tác xây dựng và thi hành pháp luật; theo dõi thi hành pháp luật; kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật; kiểm soát thủ tục hành chính; pháp chế; phổ biến, giáo dục pháp luật; hòa giải ở cơ sở; hộ tịch; quốc tịch; chứng thực; nuôi con nuôi; lý lịch tư pháp; bồi thường nhà nước; trợ giúp pháp lý; luật sư; tư vấn pháp luật; công chứng; giám định tư pháp; bán đấu giá tài sản; trọng tài thương mại; quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính và công tác tư pháp khác theo quy định của pháp luật.

- Theo khoản 1 Điều 4 của Thông tư, Phòng Tư pháp là cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là UBND cấp huyện), thực hiện chức năng tham mưu, giúp UBND cấp huyện quản lý nhà nước về: Công tác xây dựng và thi hành pháp luật; theo dõi thi hành pháp luật; kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật; kiểm soát thủ tục hành chính; phổ biến, giáo dục pháp luật; hòa giải ở cơ sở; nuôi con nuôi; hộ tịch; chứng thực; bồi thường nhà nước; trợ giúp pháp lý; quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính và công tác tư pháp khác theo quy định của pháp luật.

- Đối với cấp xã, do không có cơ quan chuyên môn, nên công chức tư pháp – hộ tịch thực hiện tham mưu, giúp UBND cấp xã tổ chức thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của UBND cấp xã trong các lĩnh vực: Tư pháp và hộ tịch trên địa bàn theo quy định của pháp luật[1].

1.2. Yêu cầu hoàn thiện mô hình tổ chức cơ quan tư pháp địa phương

Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị Trung ương 6 Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả đã chỉ rõ một số quan nhiệm vụ đối với cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, cấp huyện: “Rà soát, sắp xếp tổ chức bên trong của các sở, ngành theo hướng tinh gọn đầu mối, kiên quyết cắt giảm số lượng, sắp xếp lại phòng, chi cục, trung tâm, ban quản lý dự án và đơn vị sự nghiệp thuộc sở, ngành; sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật liên quan nhằm tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền cấp xã và quy định khung số lượng cán bộ, công chức cấp xã cho phù hợp theo hướng xác định rõ vị trí việc làm, tiêu chuẩn chức danh, đặc thù của địa phương và bảo đảm giảm biên chế”. Đồng thời, Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII; Kế hoạch số 07-KH/TW ngày 27/11/2017 của Bộ Chính trị thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW và Nghị quyết số 56/2017/QH14 ngày 24/11/2017 của Quốc hội về việc tiếp tục cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả đã yêu cầu các địa phương: “Rà soát, sắp xếp lại tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, cấp huyện theo quy định khung của Chính phủ; sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị sự nghiệp công lập theo ngành, lĩnh vực và nhu cầu của thị trường, xã hội; thực hiện tinh giản biên chế theo lộ trình, giảm số lượng cấp phó của các cơ quan, tổ chức, đơn vị phù hợp với tình hình thực tế tại địa phương” (thực hiện từ năm 2019).

Thực hiện chủ trương trên, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 10//2020/NĐ-CP ngày 14/9/2020 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 24/2014/NĐ-CP ngày 04/4/2014 của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Nghị định số 108/2020/NĐ-CP ngày 14/9/2020 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 37/2014/NĐ-CP ngày 05/5/2014 của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Theo đó, các Nghị định này đã bổ sung tiêu chí thành lập các tổ chức bên trong thuộc các cơ quan chuyên môn cấp tỉnh, cấp huyện. Triển khai thực hiện yêu cầu nêu trên, một số cơ quan tư pháp địa phương đã tham mưu với lãnh đạo tỉnh ủy, thành ủy tổ chức kiện toàn các cơ quan tư pháp địa phương[2].

2. Thực trạng tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp địa phương

2.1. Đối với Sở Tư pháp

Thông tư liên tịch số 23/2014/TTLT-BTP-BNV quy định theo hướng thống nhất về số lượng, tên gọi và chức năng, nhiệm vụ các phòng chuyên môn thuộc Sở Tư pháp nhằm tạo điều kiện thống nhất đầu mối quản lý giữa Bộ Tư pháp và các đơn vị thuộc Sở Tư pháp, cũng như tạo sự thống nhất, thuận tiện cho việc liên hệ, phối hợp công tác giữa các Sở Tư pháp. Theo quy định tại Điều 3 Thông tư liên tịch số 23/2014/TTLT-BTP-BNV, cơ cấu tổ chức của các Sở Tư pháp được quy định cụ thể như sau: Đối với Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, các tổ chức thuộc Sở Tư pháp được thành lập phù hợp với tình hình thực tế của địa phương, bao gồm Văn phòng Sở, Thanh tra Sở và không quá 09 phòng chuyên môn, nghiệp vụ; trường hợp vượt quá thì Chủ tịch UBND thành phố chỉ đạo xây dựng Đề án thành lập tổ chức và phải thống nhất với Bộ Nội vụ, Bộ Tư pháp trước khi quyết định; đối với các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương khác, cơ cấu tổ chức của Sở Tư pháp có Văn phòng Sở, Thanh tra Sở và 06 phòng chuyên môn, nghiệp vụ. Ngoài ra, việc thành lập Phòng Tổ chức cán bộ thuộc Sở hoặc bộ phận tổ chức cán bộ thuộc Văn phòng Sở do Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định, đồng thời, Phòng Lý lịch tư pháp được thành lập tại các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương theo Quyết định số 2369/QĐ-TTg ngày 28/12/2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án Xây dựng Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia và kiện toàn tổ chức thuộc Sở Tư pháp để xây dựng, quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp.

Ngoài các đơn vị thực hiện chức năng quản lý nhà nước, Sở Tư pháp còn có các đơn vị sự nghiệp trực thuộc, bao gồm các Phòng Công chứng, Trung tâm Trợ giúp pháp lý và Trung tâm Dịch vụ bán đấu giá tài sản. Thực hiện Thông tư liên tịch số 23/2014/TTLT-BTP-BNV, cơ cấu tổ chức của Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về cơ bản được kiện toàn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tên gọi của các Phòng chuyên môn, nghiệp vụ thuộc các Sở Tư pháp phù hợp với quy định của Thông tư liên tịch số 23/2014/TTLT-BTP-BNV.

2.2. Đối với Phòng Tư pháp

Theo Thông tư liên tịch số 23/2014/TTLT-BTP-BNV, cơ cấu tổ chức của Phòng Tư pháp được quy định như sau: Phòng Tư pháp có Trưởng phòng, không quá 03 Phó Trưởng phòng và các công chức khác. Trưởng phòng chịu trách nhiệm trước UBND, Chủ tịch UBND cấp huyện và trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao và toàn bộ hoạt động của Phòng và công chức tư pháp - hộ tịch cấp xã trên địa bàn. Phó Trưởng phòng là người giúp Trưởng phòng phụ trách và theo dõi một số mặt công tác; chịu trách nhiệm trước Trưởng phòng và trước pháp luật về nhiệm vụ được phân công. Khi Trưởng phòng vắng mặt, một Phó Trưởng phòng được Trưởng phòng ủy nhiệm điều hành các hoạt động của Phòng.

2.3. Đối với công chức tư pháp - hộ tịch cấp xã

Thông tư liên tịch số 23/2014/TTLT-BTP-BNV không có một chương riêng hướng dẫn về công tác tư pháp của UBND cấp xã như Thông tư liên tịch số 01/2009/TTLT-BTP-BNV, vì trong quá trình xây dựng Thông tư liên tịch số 23/2014/TTLT-BTP-BNV có ý kiến cho rằng, trách nhiệm hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ đối với công tác tư pháp cấp xã đã được giao cho Sở Tư pháp và Phòng Tư pháp thực hiện, trong khi đó, việc bố trí biên chế đội ngũ công chức xã, phường, thị trấn đã được hướng dẫn trong các văn bản có liên quan của Bộ Nội vụ. Do đó, các thông tư liên tịch giữa các Bộ, ngành và Bộ Nội vụ đều được thống nhất xây dựng theo hướng chỉ hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức đối với các cơ quan chuyên môn của UBND cấp tỉnh và cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện.

2.4. Một số vướng mắc về tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp địa phương trong thời điểm hiện nay

Một là, việc thực hiện cơ cấu tổ chức của các Sở Tư pháp theo quy định của Thông tư liên tịch số 23/2014/TTLT-BTP-BNV hiện đã bộc lộ những bất cập do biên chế hành chính được giao cho Sở Tư pháp hiện nay còn hạn chế, tình trạng các phòng chuyên môn, nghiệp vụ của Sở Tư pháp chỉ bố trí được từ 02 - 03 biên chế/phòng diễn ra khá phổ biến, dẫn đến những hạn chế, bất cập nhất định trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của các Sở Tư pháp. Hơn nữa, khối lượng công việc tại các Sở Tư pháp, giữa các phòng chuyên môn thuộc Sở cũng có sự khác biệt tùy theo từng địa bàn và tình hình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, do đó, dẫn đến sự không đồng đều trong việc bố trí, thực hiện chức năng, nhiệm vụ của các phòng chuyên môn thuộc Sở.

Hai là, việc quy định cơ cấu tổ chức của Phòng Tư pháp có ý nghĩa quan trọng vì nó giúp xác định định biên của Phòng Tư pháp phải có tối thiểu từ 04 đến 05 biên chế để giúp UBND cấp huyện triển khai công tác tư pháp ở địa phương như đã nêu ở trên. Qua theo dõi, tổng hợp báo cáo của các địa phương, hiện nay, trung bình mỗi Phòng Tư pháp trên cả nước có 4,6 công chức/phòng. Tuy nhiên, việc thực hiện cơ cấu tổ chức của Phòng Tư pháp theo quy định của Thông tư liên tịch số 23/2014/TTLT-BTP-BNV trong bối cảnh thực hiện chủ trương tinh giản tổ chức bộ máy, biên chế hiện nay về cơ bản là khó khả thi, đòi hỏi cần nghiên cứu, sửa đổi cho phù hợp với thực tiễn và yêu cầu thực thi nhiệm vụ.

Ba là, hiện nay các quy định về chức năng, nhiệm vụ và việc bố trí đội ngũ công chức tư pháp - hộ tịch cấp xã đang nằm trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau, như: Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 34/2019/NĐ-CP ngày 24/4/2019 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số quy định về cán bộ, công chức cấp xã và người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố); Thông tư số 13/2019/TT-BNV ngày 06/11/2019 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ hướng dẫn một số quy định về cán bộ, công chức cấp xã và người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố; Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch. Thực tế này dẫn đến việc triển khai công tác tư pháp cấp xã còn nhiều khó khăn do chưa bao quát được hết các nhiệm vụ theo quy định, chất lượng và hiệu quả quản lý còn thấp, gây ảnh hưởng nhất định tới quyền và lợi ích của công dân, hạn chế tới sự phát triển kinh tế - xã hội và quản lý thống nhất công tác tư pháp từ Trung ương tới cơ sở.

Bốn là, sau hơn bốn năm thực hiện Thông tư liên tịch số 23/2014/TTLT-BTP-BNV, nhiều quy định của Thông tư không còn phù hợp với các văn bản mới được ban hành, như công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật; công tác bồi thường nhà nước; công tác trợ giúp pháp lý; công tác bổ trợ tư pháp cần được rà soát, cập nhật để bảo đảm phù hợp với quy định của các văn bản quy phạm pháp luật mới được ban hành trong các lĩnh vực nêu trên.

Năm là, việc phân cấp trong một số lĩnh vực của Bộ, Ngành trong thời gian qua còn lúng túng; chức năng, nhiệm vụ của Bộ Tư pháp có việc chưa tập trung vào việc tham mưu, quản lý vĩ mô, đặc biệt là trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; có những việc Bộ đang làm mang tính sự vụ; có việc cấp tỉnh, cấp huyện có thể làm được. Ngược lại, có những việc Bộ cần quản lý thống nhất nhưng đang được phân cấp cho cấp dưới, thậm chí cấp xã thực hiện. Do vậy, trong thời gian tới, cần nghiên cứu lại việc phân cấp, phân quyền giữa Trung ương và địa phương trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Bộ.

3. Một số giải pháp hoàn thiện mô hình tổ chức hoạt động của các cơ quan tư pháp địa phương

Thứ nhất, về thể chế, trên cơ sở Nghị định số 107/2020/NĐ-CP, Nghị định số 108/2020/NĐ-CP, Bộ Tư pháp ban hành Thông tư thay thế Thông tư liên tịch số 23/2014/TTLT-BTP-BNV và UBND cấp tỉnh tổ chức thực hiện việc sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ của các cơ quan tư pháp địa phương.

Thứ hai, thực hiện rà soát, sắp xếp lại tổ chức bộ máy của các cơ quan tư pháp địa phương theo hướng sau:

- Đối với Sở Tư pháp, UBND các tỉnh thực hiện rà soát, sắp xếp các phòng thuộc Sở Tư pháp tại các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương theo hướng: (i) Các tổ chức được thành lập thống nhất thuộc các Sở Tư pháp gồm có: Văn phòng, Thanh tra2; (ii) Các phòng nghiệp vụ; (iii) Các đơn vị sự nghiệp trực thuộc Sở. Trong đó, việc thành lập các phòng chuyên môn, nghiệp vụ được thành lập phù hợp với đặc điểm của từng địa phương theo các lĩnh vực: Xây dựng và kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật; quản lý xử lý vi phạm hành chính và theo dõi thi hành pháp luật; phổ biến, giáo dục pháp luật; hành chính tư pháp; bổ trợ tư pháp; lý lịch tư pháp. Căn cứ vào khối lượng công việc, tính chất, đặc điểm quản lý của công tác tư pháp cụ thể của địa phương, Giám đốc Sở Tư pháp chủ trì, phối hợp với Giám đốc Sở Nội vụ trình UBND cấp tỉnh quyết định cụ thể tên gọi các phòng nghiệp vụ để bao quát các lĩnh vực nêu của Sở Tư pháp với số lượng là: 07 đối với Sở Tư pháp cấp tỉnh loại đặc biệt; 06 đối với Sở Tư pháp cấp tỉnh loại 01; 05 đối với Sở Tư pháp cấp tỉnh loại 02 và loại 03.

- Đối với các đơn vị sự nghiệp thuộc Sở, thực hiện rà soát, sắp xếp, kiện toàn các đơn vị sự nghiệp đảm bảo phù hợp với Danh mục dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước của Bộ Tư pháp, bảo đảm tinh gọn, có cơ cấu hợp lý và đồng bộ, thống nhất. Trong quá trình sắp xếp, giảm tối thiểu 10% đơn vị sự nghiệp công lập và giảm tối thiểu 10% biên chế sự nghiệp hưởng lương từ ngân sách nhà nước so với năm 2015.

- Đối với Phòng Tư pháp, cần quy định rõ số lượng biên chế tối thiểu của Phòng Tư pháp nhằm khắc phục tình trạng thành lập phòng có quy mô quá nhỏ (dưới 05 biên chế, thậm chí, chỉ có 01 đến 02 biên chế/phòng); quy định rõ số lượng Phó Trưởng phòng (có thể theo phương án quy định số lượng bình quân mỗi phòng có 02 Phó Trưởng phòng hoặc quy định số lượng Phó Trưởng phòng căn cứ vào số lượng biên chế của phòng và theo loại đơn vị hành chính loại I, loại II, loại III).

- Đối với công tác tư pháp ở cấp xã, tiến hành sửa đổi Thông tư liên tịch số 23/2014/TTLT-BNT-BN ngày 22/12/2014 của Bộ Tư pháp và Bộ Nội vụ hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Tư pháp thuộc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và Phòng Tư pháp thuộc UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh theo hướng bổ sung thêm 01 chương về nhiệm vụ, quyền hạn của UBND xã và vị trí vai trò, nhiệm vụ của công chức tư pháp - hộ tịch cấp xã. Việc sửa đổi này giúp cho việc triển khai công tác tư pháp ở cấp xã được thuận lợi, tránh tình trạng mỗi địa phương lại quy định khác nhau, không đầy đủ về nhiệm vụ tư pháp cấp xã, đồng thời, giúp cho việc xác định vị trí việc làm và định biên cho công chức tư pháp - hộ tịch cấp xã ở các địa phương được thuận lợi hơn.

Thứ ba, kiện toàn đội ngũ cán bộ, thực hiện rà soát, sắp xếp gắn với cơ cấu lại và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; hoàn thiện các quy định, quy chế nội bộ trong công tác cán bộ, đặc biệt là liên quan đến chế độ, chính sách của cán bộ, công chức, đảm bảo hiệu lực, hiệu quả, dân chủ, công khai và minh bạch. Tăng cường kiểm tra, thanh tra việc thực hiện các quy định về sắp xếp, tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế, thực hiện quy trình bổ nhiệm cán bộ và việc thực hiện các chế độ chính sách khác đối với cán bộ, công chức, viên chức; tiếp tục thực hiện nghiêm chỉ tiêu tinh giản biên chế theo yêu cầu của Nghị quyết số 39-NQ/TW, Nghị quyết số 18-NQ/TW và Nghị quyết số 19-NQ/TW.

Thứ tư, quản lý biên chế gắn với vị trí việc làm; đẩy nhanh tiến độ xây dựng, hoàn thiện danh mục và bản mô tả vị trí việc làm trong của các cơ quan tư pháp địa phương để thực hiện sắp xếp, bố trí cán bộ, công chức, viên chức, tinh giản biên chế và cải cách chính sách tiền lương.

TS. Nguyễn Quang Thái

Tổng Cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự

ThS. Trần Thị Hải

Vụ Tổ chức cán bộ, Bộ Tư pháp



[1]. Khoản 6 Điều 2 Thông tư số 13/2019/TT-BNV ngày 06/11/2019 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ hướng dẫn một số quy định về cán bộ, công chức cấp xã và người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố

[2]. Theo quy định tại Điều 4 và Điều 23 Luật Thanh tra thì: Thanh tra sở là cơ quan của sở, giúp Giám đốc sở tiến hành thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật; Thanh tra sở được thành lập ở những sở thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước theo ủy quyền của Ủy ban nhân dân cùng cấp hoặc theo quy định của pháp luật.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng trong xây dựng Nghị định số 80/2025/NĐ-CP về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật được Chính phủ ban hành ngày 01/4/2025 (Nghị định số 80/2025/NĐ-CP).
Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự năm 2015) có hiệu lực khi Luật Đất đai năm 2003 chưa được sửa đổi nên có một số quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong Bộ luật Hình sự năm 2015 và Luật Đất đai năm 2024 chưa có sự đồng bộ. Do đó, cần tiếp tục nghiên cứu các quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong hai văn bản này nhằm bảo đảm tính đồng bộ để đáp ứng được yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển kinh tế biển được coi là một động lực tăng trưởng mới, nhất là đối với các quốc gia có bờ biển dài như Việt Nam. Việc hướng tới một nền kinh tế biển xanh trên cơ sở bảo tồn, phát huy các nguồn tài nguyên biển, đặc biệt là các nguồn tài nguyên có thể tái tạo như: điện gió, điện mặt trời, du lịch sinh thái… được xem là giải pháp lâu dài, bền vững thúc đẩy Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm