Thứ tư 18/06/2025 11:58
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Hoàn thiện pháp luật về cấp bảo lãnh Chính phủ đối với khoản vay của doanh nghiệp

Tóm tắt: Bài viết này nghiên cứu và làm rõ những bất cập của pháp luật hiện hành về cấp bảo lãnh Chính phủ đối với khoản vay của doanh nghiệp, về giám sát hoạt động cấp và quản lý bảo lãnh Chính phủ đối với khoản vay của doanh nghiệp, từ đó, đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.

Tóm tắt: Bài viết này nghiên cứu và làm rõ những bất cập của pháp luật hiện hành về cấp bảo lãnh Chính phủ đối với khoản vay của doanh nghiệp, về giám sát hoạt động cấp và quản lý bảo lãnh Chính phủ đối với khoản vay của doanh nghiệp, từ đó, đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.

Abstract: This paper examines and clarifies insufficiencies of existing law on government guarantee level for enterprise loans, on supervision of level and management of government guarantee for enterprise loans, and from that point, puts forward recommendations for completing law on this area.

1. Vài nét về thực trạng nợ vay và bản chất của cấp bảo lãnh Chính phủ cho các khoản vay của doanh nghiệp

Trong những năm gần đây, dư nợ các khoản vay được Chính phủ bảo lãnh ngày càng lớn, tiềm ẩn nguy cơ với nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ và là một trong những áp lực lên nợ công. Năm 2010, con số này là 11,9 tỉ USD, đến cuối năm 2015, số nợ thực tế được Chính phủ bảo lãnh đã lên tới khoảng 21 tỉ USD (gồm cả nợ được bảo lãnh để tái cơ cấu Tổng Công ty Công nghiệp tàu thủy Việt Nam), chiếm khoảng 17,8% tổng dư nợ công và bằng 11,1% GDP năm 2015. Như vậy là chỉ trong 6 năm, các khoản vay được Chính phủ bảo lãnh tăng gần 1,76 lần và bảo lãnh vay nợ tăng bình quân 50%/năm từ 2010 – 2013[1].

Trong khi đó, các doanh nghiệp (DN) được Chính phủ bảo lãnh nợ vay lại sử dụng vốn chưa hiệu quả. Nhiều dự án gặp khó khăn trong việc trả nợ, phải xin giãn, hoãn, xóa nợ[2]… Nhiều dự án không trả được nợ, Bộ Tài chính phải dùng Quỹ tích lũy trả nợ để cho DN vay trả nợ như: Dự án Xi măng Hạ Long, Xi măng Đồng Bành… Nhiều dự án không có khả năng thu hồi vốn, Chính phủ phải đứng ra trả nợ thay như Nhà máy Bột giấy Phương Nam[3]… Tình trạng này có thể đã không diễn ra nếu như có cơ chế chặt chẽ đảm bảo khả năng trả nợ đầy đủ và đúng hạn của doanh nghiệp; đảm bảo việc cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác khi đề nghị cấp bảo lãnh Chính phủ của DN; đảm bảo việc thẩm định hồ sơ đề nghị bảo lãnh Chính phủ của cơ quan cấp bảo lãnh hiệu quả cũng như đảm bảo việc minh bạch thông tin về nợ Chính phủ bảo lãnh và bản thân hoạt động cấp và quản lý bảo lãnh Chính phủ cho khoản vay của DN.

Việc Chính phủ cấp bảo lãnh cho các DN vay vốn là hoạt động thường phát sinh khi DN cần huy động một lượng vốn lớn, đặc biệt là trên thị trường vốn quốc tế, nhưng không đủ uy tín để tự vay. Chính phủ bảo lãnh cho DN vay vốn tức là Chính phủ cam kết với bên cho vay về việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ trong trường hợp đến hạn trả nợ mà DN không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ. Khi đó, Chính phủ có thể giúp DN tiếp cận được với các nguồn vốn với quy mô lớn, lãi suất thấp.

Quan hệ vay vốn có bảo lãnh Chính phủ là mối quan hệ ba bên, bao gồm: Bên cho vay (bên nhận bảo lãnh), Chính phủ (bên bảo lãnh) và bên vay - doanh nghiệp (bên được bảo lãnh). Về bản chất, bảo lãnh Chính phủ là một biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong quan hệ vay vốn giữa DN và bên cho vay; nghĩa vụ của bên bảo lãnh (Chính phủ) là nghĩa vụ bổ trợ cho nghĩa vụ chính - nghĩa vụ trả nợ của doanh nghiệp (bên được bảo lãnh) đối với bên cho vay (bên nhận bảo lãnh) và quan hệ giữa bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh là quan hệ nghĩa vụ (hợp đồng). Như vậy, trong trường hợp DN không thanh toán được khoản vay đến hạn, thì với trách nhiệm của bên bảo lãnh, Chính phủ phải trả nợ thay cho DN. Hay nói cách khác, nợ doanh nghiệp được Chính phủ bảo lãnh có nguy cơ trở thành gánh nặng của ngân sách quốc gia và được xem là một bộ phận của nợ công.

2. Thực trạng quy định về cấp bảo lãnh Chính phủ cho doanh nghiệp vay vốn và những bất cập

Về nguyên tắc, DN vay vốn có nghĩa vụ trả nợ, Chính phủ chỉ trả nợ thay trong trường hợp DN không trả được nợ. Để tránh nguy cơ đối với nợ công từ các khoản nợ này, vấn đề đặt ra là làm thế nào để doanh nghiệp có khả năng trả nợ đầy đủ và đúng hạn? Trước hết, DN cần phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện cấp bảo lãnh để chứng minh năng lực trả nợ của mình, nhu cầu cần thiết vay vốn và cho thấy phương án sử dụng vốn vay hiệu quả. Luật Quản lý nợ công năm 2009 đã quy định về các điều kiện để DN được cấp bảo lãnh chính phủ tại Điều 34, bao gồm: (i) Đã hoàn thành thủ tục đầu tư theo quy định của pháp luật về đầu tư và các quy định của pháp luật có liên quan; (ii) Có đề án vay, phương án sử dụng vốn vay, trả nợ được Bộ Tài chính thẩm định và được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; (iii) Trường hợp là doanh nghiệp thực hiện các dự án đầu tư phải bảo đảm tối thiểu 20% tổng mức vốn đầu tư là vốn chủ sở hữu; (iv) Tình hình tài chính lành mạnh, không bị lỗ trong ba năm liền kề gần nhất, trừ các khoản lỗ do thực hiện chính sách; tại thời điểm đề nghị cấp bảo lãnh không có nợ quá hạn với các tổ chức tài chính, tín dụng; không có nợ quá hạn liên quan đến các khoản được bảo lãnh, các khoản vay lại nguồn vốn vay nước ngoài của Chính phủ và ngân sách nhà nước. Trường hợp doanh nghiệp chưa đủ ba năm hoạt động liên tục thì phải có cam kết của chủ sở hữu hoặc của công ty mẹ về bảo đảm khả năng trả nợ đối với khoản vay được bảo lãnh; (v) Chấp thuận các chế tài theo quy định của cơ quan cấp bảo lãnh; (vi) Không vi phạm pháp luật về quản lý nợ công trong thời hạn ba năm liền kề gần nhất tính đến thời điểm đề nghị cấp bảo lãnh.

Luật Quản lý nợ công năm 2017 đưa ra các điều kiện thắt chặt hơn so với Luật Quản lý nợ công năm 2009. Cụ thể, không cho phép DN hoạt động dưới 3 năm được cấp bảo lãnh; không có trường hợp ngoại lệ như các dự án, công trình trọng điểm, dự án lớn có tính cấp bách và có tầm quan trọng đặc biệt cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nếu DN chưa đáp ứng đủ điều kiện về vốn chủ sở hữu, Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định miễn áp dụng điều kiện này trong từng trường hợp cụ thể như quy định tại điểm e khoản 2 Điều 34 Luật Quản lý nợ công năm 2009; hay khoản bảo lãnh phải nằm trong hạn mức bảo lãnh hằng năm đã được Chính phủ phê duyệt (Điều 43 Luật Quản lý nợ công năm 2017).

Để đảm bảo việc cấp bảo lãnh Chính phủ hiệu quả, cấp cho những DN thực sự cần vốn, thì thông tin DN cung cấp khi đề nghị cấp bảo lãnh phải đầy đủ, chính xác. Muốn vậy, cần nâng cao trách nhiệm của DN trong việc cung cấp thông tin cho cơ quan cấp bảo lãnh, đồng thời, cơ quan cấp bảo lãnh cũng cần thẩm định kỹ các thông tin để đảm bảo việc cấp bảo lãnh Chính phủ được chính xác. Nghị định số 04/2017/NĐ-CP ngày 16/01/2017 của Chính phủ về cấp và quản lý bảo lãnh chính phủ quy định DN phải cung cấp đầy đủ hồ sơ, chịu trách nhiệm về tính đúng đắn, chính xác của các số liệu, hồ sơ cung cấp cho Bộ Tài chính (Điều 55) và điều này đã được ghi nhận ở khoản 2 Điều 48 Luật Quản lý nợ công năm 2017.

Về phía cơ quan cấp bảo lãnh, Bộ Tài chính cần có những thông tin về DN từ một bên thứ ba để bảo đảm tính khách quan. Nghị định số 04/2017/NĐ-CP quy định trong trường hợp cần bổ sung thông tin, Bộ Tài chính lấy ý kiến của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan quản lý ngành về các vấn đề thuộc lĩnh vực quản lý có liên quan đến chương trình, dự án vay vốn đề nghị cấp bảo lãnh chính phủ (khoản 3 Điều 14 và khoản 3 Điều 16). Đây là quy định cần thiết nhằm nâng cao trách nhiệm của các bộ, ngành trong việc cấp bảo lãnh Chính phủ. Trách nhiệm tham gia ý kiến với Bộ Tài chính của các bộ, cơ quan ngang bộ trong quá trình thẩm định chủ trương cấp bảo lãnh và thẩm định cấp bảo lãnh Chính phủ cũng đã được ghi nhận ở khoản 3 Điều 48 Luật Quản lý nợ công năm 2017. Trên thực tế, việc thẩm định dự án được Chính phủ bảo lãnh phần lớn dựa trên giải trình của chủ dự án, không có trách nhiệm của các bộ, ngành liên quan như Bộ Xây dựng trong dự án xi măng, Bộ Công thương trong dự án điện[4]… Khi các bộ, ngành tham gia vào quá trình thẩm định dự án cấp bảo lãnh Chính phủ, nếu dự án rủi ro sẽ quy lại trách nhiệm các bộ, ngành và họ phải giải trình về vấn đề này. Tuy vậy, Nghị định số 04/2017/NĐ-CP mới chỉ dừng ở việc quy định các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan quản lý ngành có trách nhiệm tham gia ý kiến về các vấn đề thuộc lĩnh vực quản lý có liên quan đến chương trình, dự án vay vốn đề nghị cấp bảo lãnh Chính phủ theo đề nghị của Bộ Tài chính (khoản 6 Điều 53) mà chưa quy định rõ các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan quản lý ngành phải chịu trách nhiệm về việc tham gia ý kiến.

Bên cạnh việc lấy ý kiến của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan quản lý ngành như trên, Bộ Tài chính có thể thẩm định chương trình, dự án dựa trên thông tin về DN của các tổ chức xếp hạng tín nhiệm[5]. Việc các DN được xếp hạng tín nhiệm có ý nghĩa quan trọng đối với người cho vay, người bảo lãnh và chính DN. Người cho vay sẽ có căn cứ để xem xét khả năng trả nợ của DN bên cạnh việc DN được cấp bảo lãnh Chính phủ; người bảo lãnh cũng có căn cứ để xem xét cấp bảo lãnh cho DN nhằm hạn chế rủi ro với nợ công; còn DN có kết quả xếp hạng tín nhiệm tốt thì sẽ huy động được nhiều vốn hơn. Các thông tin về DN của các tổ chức xếp hạng tín nhiệm là một kênh thông tin độc lập, tin cậy, khách quan giúp Bộ Tài chính có thêm cơ sở xem xét việc cấp bảo lãnh Chính phủ cho DN. Tuy nhiên, pháp luật hiện nay chưa quy định điều kiện để DN được cấp bảo lãnh Chính phủ là DN phải được xếp hạng tín nhiệm. Không những thế, ở Việt Nam hiện nay, các thông tin đánh giá, xếp hạng DN còn thiếu[6], nên Bộ Tài chính chưa thể dựa vào kênh thông tin này trong quá trình xem xét cấp bảo lãnh Chính phủ.

Để đảm bảo việc cấp bảo lãnh Chính phủ hiệu quả, cũng cần nâng cao trách nhiệm của cơ quan cấp bảo lãnh trong việc thẩm định chương trình, dự án đề nghị cấp bảo lãnh. Trên thực tế, nhiều đối tượng không đủ điều kiện được bảo lãnh nhưng vẫn được cấp bảo lãnh Chính phủ, khi mất khả năng thanh toán lại được Chính phủ trả nợ thay. Báo cáo kiểm toán năm 2013 của Kiểm toán Nhà nước cho thấy, bất cập trong việc cấp bảo lãnh Chính phủ, nhất là với những chương trình, dự án vay vốn nước ngoài do khâu thẩm định có vấn đề. Một minh chứng cho thấy, nợ nước ngoài được bảo lãnh đến hết năm 2012 là 7,2 tỉ USD, tăng gần 29% so với năm trước. Nhưng tại thời điểm cấp bảo lãnh, hầu hết các chủ đầu tư dự án chưa bố trí đủ mức vốn chủ sở hữu tối thiểu bằng 20% so với tổng mức vốn đầu tư mà chỉ cam kết sẽ đảm bảo tỷ lệ theo quy định. Họ cũng chưa báo cáo về tiến độ góp vốn chủ sở hữu trong quá trình triển khai dự án[7]. Luật Quản lý nợ công năm 2009 quy định trách nhiệm này của Bộ Tài chính tại điểm a khoản 1 Điều 36, nhưng đến Luật Quản lý nợ công năm 2017 lại không ghi nhận điều này.

3. Bất cập trong giám sát hoạt động cấp và quản lý bảo lãnh Chính phủ cho doanh nghiệp vay vốn

Quyền giám sát tối cao của Quốc hội đối với hoạt động của Nhà nước là một quyền hiến định (Điều 69 Hiến pháp năm 2013). Luật Ngân sách nhà nước năm 2015 cụ thể hóa quyền giám sát của Quốc hội về ngân sách nhà nước, đó là “giám sát việc thực hiện ngân sách nhà nước” (khoản 10 Điều 19). Trong khi đó, nợ một số doanh nghiệp được Chính phủ bảo lãnh có thể trở thành gánh nặng của ngân sách quốc gia. Áp lực này cũng khiến cho sự gia tăng tình trạng bội chi ngân sách do ngân sách trung ương phải gánh chịu những khoản chi bất thường vì phải thực hiện trách nhiệm trả nợ. Chính vì vậy, Quốc hội cần phải giám sát chặt chẽ hoạt động cấp và quản lý bảo lãnh Chính phủ cho khoản vay của DN. Căn cứ để Quốc hội giám sát hoạt động này là vấn đề minh bạch thông tin về nợ Chính phủ bảo lãnh và bản thân hoạt động cấp và quản lý bảo lãnh Chính phủ cho khoản vay của DN.

Luật Quản lý nợ công năm 2009 quy định về nghĩa vụ của Chính phủ báo cáo Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội thông tin về nợ công, trong đó thông tin liên quan đến nợ được Chính phủ bảo lãnh bao gồm: Tình hình thực hiện kế hoạch vay, bảo lãnh và trả nợ hàng năm, trong đó có số ký kết vay, số rút vốn, trị giá phát hành, trị giá bảo lãnh, số trả nợ, số dư nợ, tỷ lệ nợ so với GDP; Tình hình thực hiện các chương trình, dự án sử dụng vốn vay của Chính phủ và vốn vay được Chính phủ bảo lãnh (Điều 44). Về phía Bộ Tài chính, cơ quan này phải thực hiện công khai thông tin về nợ công, trong đó có thông tin về nợ được Chính phủ bảo lãnh. Bộ Tài chính phải công bố định kỳ thông tin về nợ công theo quy định của pháp luật (Điều 47).

Luật Quản lý nợ công năm 2017 quy định về việc báo cáo, công bố thông tin về nợ công cụ thể hơn. Theo đó, Chính phủ báo cáo Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước thông tin về nợ Chính phủ bảo lãnh bao gồm: Hạn mức bảo lãnh Chính phủ hằng năm; tình hình cấp và quản lý bảo lãnh Chính phủ, bao gồm các dự án bảo lãnh Chính phủ gặp khó khăn trong trả nợ và Quỹ Tích lũy trả nợ phải ứng trả thay chi tiết theo từng dự án; tình hình quản lý, sử dụng Quỹ Tích lũy trả nợ, bao gồm số liệu dư đầu kỳ, thu, chi phát sinh trong kỳ, số dư cuối kỳ (Điều 60). Bộ Tài chính là cơ quan có trách nhiệm công bố thông tin về nợ công. Thông tin về nợ Chính phủ bảo lãnh được công bố là “nợ được Chính phủ bảo lãnh bao gồm dư nợ vay và khoản ứng từ Quỹ Tích lũy trả nợ để trả nợ thay (nếu có)”. Bản tin nợ công được Bộ Tài chính phát hành 06 tháng một lần trên Trang thông tin điện tử của Bộ (Điều 61). Tuy nhiên, trên thực tế, báo cáo của Chính phủ với Quốc hội về bảo lãnh Chính phủ mới chỉ thống kê các dự án cho vay, số DN được bảo lãnh vay nợ mà chưa có thông tin chi tiết về hiệu quả sử dụng vốn vay được bảo lãnh ở từng dự án, khả năng trả nợ của từng dự án, số lượng dự án đã và đang rơi vào nguy cơ chuyển nợ dự phòng, số lượng dự án đã chuyển thành nợ chính thức của Chính phủ, số tiền trả nợ thay của Chính phủ, nguyên nhân không trả được nợ của các DN[8]. Ngoài ra, nguồn thông tin chính thống duy nhất về nợ công tại Việt Nam hiện nay là các Bản tin nợ công và các Bản tin nợ nước ngoài được tổng hợp và biên soạn bởi Bộ Tài chính. Tuy nhiên, cho tới thời điểm hiện tại, bản tin nợ công mới nhất (Bản tin nợ công số 5, phát hành năm 2017) mới công bố số liệu tới năm 2015, trong khi bản tin nợ nước ngoài mới nhất (Bản tin nợ nước ngoài số 7, phát hành năm 2011) mới chỉ báo cáo về tình hình nợ đến năm 2010. Trong các bản tin nợ công này cũng không có các thông tin chi tiết, cụ thể về nợ Chính phủ bảo lãnh cho DN. Như vậy, có thể thấy, Quốc hội và người dân nói chung chưa thể có đầy đủ thông tin để giám sát hoạt động cấp và quản lý bảo lãnh Chính phủ cho khoản vay của DN.

Liên quan đến vấn đề báo cáo và công bố thông tin về bảo lãnh Chính phủ, có thể tham khảo Cẩm nang Minh bạch tài khóa của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF)[9]. Theo đó:

- Yêu cầu đối với sự minh bạch tài khóa là các cấp chính quyền trung ương báo cáo công khai bản chất và quy mô của các nghĩa vụ dự phòng của mình. Các nghĩa vụ dự phòng bao gồm các bảo lãnh công khai hoặc ngầm định của Chính phủ (trong đó, bảo lãnh vay vốn cho các công ty công là bảo lãnh công khai);

- Báo cáo về nghĩa vụ dự phòng của Chính phủ cần đưa vào tài liệu về ngân sách. Các khoản dự phòng cần được lượng hóa, phân loại. Các thông tin về những lần chính phủ phải thực hiện chi trả các nghĩa vụ dự phòng trong quá khứ cần được công khai;

- Thông tin về bảo lãnh cần phải được công khai trong tài liệu ngân sách, báo cáo tài khóa trong năm, báo cáo tài chính cuối năm cùng với các thông tin cập nhật;

- Trong năm ngân sách, chi tiết về những bảo lãnh mới được phát hành cần phải được công bố (ví dụ trên Công báo). Báo cáo tài khóa trong năm cần chỉ ra được những bảo lãnh mới được phát hành trong thời gian này, những khoản đã thanh toán cho những bảo lãnh phải thực hiện và thực trạng của những khiếu nại đối với người thụ hưởng, đồng thời cập nhật dự báo về những bảo lãnh mới sẽ được phát hành trong năm ngân sách. Các dự báo định lượng về tác động tài khóa tiềm năng của các bảo lãnh dựa trên khả năng sẽ phải thực hiện chúng cũng cần phải được công bố.

4. Một số kiến nghị và kết luận

Thông qua nghiên cứu việc cấp bảo lãnh Chính phủ và việc giám sát hoạt động cấp và quản lý bảo lãnh Chính phủ đối với khoản vay của DN, có thể đưa ra một số kiến nghị sau:

- Cần quy định rõ các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan quản lý ngành phải chịu trách nhiệm về các ý kiến về mặt chuyên môn tham gia vào quá trình thẩm định chủ trương cấp bảo lãnh và thẩm định cấp bảo lãnh cho DN.

- Cần bổ sung điều kiện cấp bảo lãnh Chính phủ là DN phải được xếp hạng tín nhiệm. Tuy nhiên, phải xây dựng khuôn khổ pháp lý chặt chẽ về hoạt động của các tổ chức xếp hạng tín nhiệm để đảm bảo quyền lợi của DN trong trường hợp tổ chức xếp hạng tín nhiệm không đảm bảo tính bảo mật thông tin.

- Luật Quản lý nợ công năm 2017 cần bổ sung quy định về trách nhiệm Bộ Tài chính liên quan đến kết quả thẩm định hồ sơ đề nghị cấp bảo lãnh Chính phủ của DN như trong Luật Quản lý nợ công năm 2009. Bộ Tài chính có thể tự thẩm định hoặc dựa vào thẩm định của một bên thứ ba, chẳng hạn như thẩm định của tổ chức kiểm toán độc lập nhằm đảm bảo sự chính xác, đúng đắn của hồ sơ do DN cung cấp hay chính là để đảm bảo chỉ những đối tượng thực sự thỏa mãn điều kiện bảo lãnh mới được cấp bảo lãnh Chính phủ.

- Cần có thông tin chi tiết về các dự án được Chính phủ cấp bảo lãnh như hiệu quả sử dụng vốn vay được bảo lãnh, khả năng trả nợ, số lượng dự án có nguy cơ chuyển nợ dự phòng, số lượng dự án đã chuyển thành nợ chính thức của Chính phủ trong các báo cáo của Chính phủ với Quốc hội về bảo lãnh Chính phủ. Nội dung công bố thông tin về bảo lãnh Chính phủ ngoài các thông tin như quy định hiện nay, cần bổ sung các thông tin về những bảo lãnh mới được phát hành trong năm ngân sách, những dự báo định lượng về tác động tài khóa của những bảo lãnh mới này như khuyến nghị về minh bạch tài khóa của IMF. Bên cạnh đó, thông tin về nợ công, trong đó có nợ Chính phủ bảo lãnh cần được Bộ Tài chính tập hợp và công bố cập nhật cho đến thời điểm hiện tại. Có như vậy, Quốc hội, người dân mới giám sát hiệu quả hoạt động cấp và quản lý bảo lãnh Chính phủ.

Tóm lại, để quản lý nợ DN được Chính phủ bảo lãnh hiệu quả, cần nhanh chóng hoàn thiện các quy định pháp luật nhằm kiểm soát chặt chẽ việc cấp bảo lãnh Chính phủ đối với khoản vay của DN và tăng cường giám sát hoạt động cấp và quản lý bảo lãnh Chính phủ đối với khoản vay của doanh nghiệp. Có như vậy, các khoản vay của doanh nghiệp được Chính phủ bảo lãnh mới thực sự là nguồn lực cần thiết cho doanh nghiệp và đất nước.

ThS. Lê Thị Bích Huệ

Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội

Tài liệu tham khảo:

[1]. Xem Đặng Linh (2017), Siết các khoản vay được Chính phủ bảo lãnh, Thời báo Kinh tế Sài Gòn online, ngày 10/3.

[2]. Xem Thu Hằng (2015), Bảo lãnh Chính phủ: Đừng “đổ lên đầu” nợ công!, Thời báo Kinh doanh ngày 11/9, tải từ http://www.stockbiz.vn.

[3]. Xem Việt Hà (2017), Chính phủ siết bảo lãnh nợ - Giảm rủi ro và không gánh nợ thay, VOV ngày 14/3, tải từ http://vov.vn.

[4]. Xem Mỹ Lệ (2017), Từ Nghị định 04 đến sửa Luật Quản lý nợ công, Thời báo Kinh tế Sài Gòn online ngày 10/3.

[5]. Xếp hạng tín nhiệm là một hoạt động nghiệp vụ mang tính chuyên nghiệp được tiến hành bởi một tổ chức chuyên môn (tổ chức xếp hạng tín nhiệm) nhằm đánh giá khả năng trả nợ của doanh nghiệp, tổ chức hoặc công cụ nợ.

[6]. Ở Việt Nam, mặc dù cơ sở pháp lý cho sự ra đời của tổ chức xếp hạng tín nhiệm được ban hành năm 2014 là Nghị định số 88/2014/NĐ-CP ngày 26/9/2014 của Chính phủ về dịch vụ xếp hạng tín nhiệm nhưng gần ba (03) năm sau vào tháng 7 năm 2017, Việt Nam mới có tổ chức xếp hạng tín nhiệm đầu tiên – đó là Công ty cổ phần Sài Gòn Phát Thịnh Rating (Xem Nguyên Mi (2017), Việt Nam có công ty xếp hạng tín nhiệm đầu tiên, Thanh Niên online ngày 28/7).

[7]. Xem Ngọc Lan (2014), Gánh nặng bảo lãnh nợ vay, Thời báo Kinh tế Sài Gòn online ngày 13/6.

[8]. Xem Ngọc Lan (2017), Rủi ro chưa hết trong bảo lãnh vay nợ chính phủ, Thời báo Kinh tế Sài gòn online ngày 17/3.

[9]. Quỹ Tiền tệ Quốc tế (2011), Cẩm nang về minh bạch tài khóa, tr. 128, 168, 169, 170.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 11/6/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 120/2025/NĐ-CP quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 120/2025/NĐ-CP). Nghị định bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động bình thường, liên tục, thông suốt của các cơ quan; không để gián đoạn công việc, không để chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực, địa bàn; không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của xã hội, người dân, doanh nghiệp khi thực hiện chính quyền địa phương hai cấp từ ngày 01/7/2025 trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Nhằm thể chế hoá đầy đủ quan điểm chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phân quyền, phân cấp; bảo đảm việc triển khai nhiệm vụ được thông suốt, hiệu quả, kịp thời, cải cách tối đa thủ tục hành chính, giảm chi phí, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, Chính phủ ban hành Nghị định số 121/2025/NĐ-CP quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 121/2025/NĐ-CP).
Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng trong xây dựng Nghị định số 80/2025/NĐ-CP về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật được Chính phủ ban hành ngày 01/4/2025 (Nghị định số 80/2025/NĐ-CP).

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm